K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 1 2018

tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần tôi bị bê đê con dê tôi bị tâm thần 

26 tháng 7 2024

quan sát ta nhận thấy :

- Mẫu của mỗi phần tử là số thứ tự trong hàng

- Tử số + mẫu số - 1 = số phần tử trong hàng

Ta có : 2016 + 2017 - 1 = 4032

Vậy số \(\dfrac{2016}{2017}\) sẽ nằm hàng thứ 2017 và thứ tự thứ 4032 trong hàng đó tính từ trái sang

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
6 tháng 12 2023

- Các bước nghiên cứu hóa học

   + Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu

   + Bước 2: Nêu giả thuyết khoa học

   + Bước 3: Thực hiện nghiên cứu (lí thuyết, thực nghiệm, ứng dụng)

   + Bước 4: Viết báo cáo: thảo luận kết quả và kết luận vấn đề

1 tháng 10 2017

Đáp án : D

Tính trạng do 2 cặp gen qui định theo qui luật tương tác bổ sung

A-B- = đen

A-bb = aaB- = xám

aabb = trắng

III6 có kiểu hình màu đen (có dạng A-B- ) , song có mẹ có kiểu gen aabb

=> III6 có kiểu gen là AaBb

III7 có bố mẹ là xám (II4) và đen (II5)

          Xét cặp II4 x II5 : xám x đen ó A-bb x A-B-

          Mà đời con có kiểu hình trắng aabb

=> Vậy cặp II4 x II5 là : Aabb x AaBb

=> III7 có dạng (1/3AA : 2/3Aa)Bb

Xét cặp III6 x III7 : AaBb         x        (1/3AA : 2/3Aa)Bb

Xác suất để cặp trên sinh con mà trắng là 1 2 . 1 3 . 1 4   = 1 24  

16 tháng 11 2021

Sơ đồ nguyên lý điện dân dụng dùng để nghiên cứu những nguyên lý hoạt động của các thiết bị điện và mạch điện. Đây là dạng sơ đồ hiển thị ví trí lắp đặt, các lắp ráp giữa các phần tử của mạch điện. Sơ đồ này được sử dụng khi dự trù vật liệu, sửa chữa mạch điện, lắp đặt và các thiết bị điện.

21 tháng 8 2017

Qui trình nghiên cứu khoa học

I- GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ

Để tiến hành nghiên cứu khoa học phải chuẩn bị đầy đủ các mặt cho nghiên cứu. Bước chuẩn bị có một vị trí đặc biệt, nó góp phần quyết định chất lượng của công trình nghiên cứu. Chuẩn bị nghiên cứu bắt đầu từ xác định đề tài và kết thúc ở việc chuẩn bị lập kế hoạch tiến hành nghiên cứu.

Qui trình nghiên cứu khoa học

Một qui trình nghiên cứu khoa học (chỉ mang tính chất minh hoạ cho một qui trình đơn giản nhất)

  1. Xác định đề tài nghiên cứu

1.1. Tầm quan trọng của việc xác định đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khoa học là một hoặc nhiều vấn đề khoa học có chứa nhiều điều chưa biết (hoặc biết chưa đầy đủ) nhưng đã xuất hiện tiền đề và khả năng có thể biết được nhằm giải đáp các vấn đề đặt ra trong khoa học hoặc trong thực tiễn.

Xác định đề tài là tìm vấn đề làm đối tượng nghiên cứu. Vấn đề của khoa học và thực tiễn là vô cùng phong phú, xác định cho mình một vấn đề nghiên cứu không phải là việc làm đơn giản. Xác định đề tài là một khâu then chốt, có ý nghĩa quan trọng đối với người nghiên cứu, vì phát hiện được vấn đề để nghiên cứu nhiều khi còn khó hơn cả giải quyết vấn đề đó và lựa chọn đề tài đôi khi quyết định cả phương hướng chuyên môn trong sự nghiệp của người nghiên cứu. Vì vậy, khi xác định đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu cần chú ý tới các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu.

1.2. Các yêu cầu đối với đề tài nghiên cứu

– Đề tài nghiên cứu phải có ý nghĩa khoa học: bổ sung nội dung lý thuyết của khoa học; làm rõ một số vấn đề lý thuyết vốn tồn tại; xây dựng cơ sở lý thuyết mới hoặc xây dựng nguyên lý các giải pháp khác nhau trong kỹ thuật, công nghệ, tổ chức, quản lý…

– Đề tài phải có tính thực tiễn, thể hiện: xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội; nhu cầu kỹ thuật của sản xuất; nhu cầu về tổ chức, quản lý, thị trường…

– Đề tài phải có tính cấp thiết đối với thời điểm tiến hành nghiên cứu. Vấn đề đang là điểm nóng bỏng về giáo dục nghề nghiệp cần phải giải quyết và giải quyết được nó sẽ đem lại giá trị thiết thực cho lý luận và thực tiễn, đóng góp cho sự phát triển của khoa học và đời sống.

1.3 Các điều kiện lựa chọn đề tài nghiên cứu

Thực tiễn giáo dục nghề nghiệp rất phong phú, đa dạng, có thể tìm được rất nhiều đề tài để nghiên cứu. Thực ra số đề tài mà thực tiễn giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi nghiên cứu thì rất nhiều mà số vấn đề có thể chọn làm đề tài nghiên cứu có kết quả thì không nhiều. Có những vấn đề thoạt tiên tưởng nghiên cứu sâu, nhưng khi bắt tay vào mới thấy là khó có khả năng phát triển về lý thuyết hoặc có tác dụng về thực tiễn. Nhiều vấn đề thấy rõ là cần nghiên cứu, nhưng khi đề cập thì chỉ có thể phát biểu tham luận ngắn mà không thành công nghiên cứu sâu được. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi một số điều kiện chủ quan ở người nghiên cứu cũng như điều kiện khách quan ở công tác nghiên cứu.

  • Điều kiện chủ quan

Đề tài phải phù hợp với xu hướng, khả năng, kinh nghiệm của người nghiên cứu. Đương nhiên, bao giờ người nghiên cứu cũng phải đứng trước lựa chọn giữa nguyện vọng khoa học của cá nhân với việc giải quyết nhu cầu bức bách của xã hội.

  • Điều kiện khách quan của việc nghiên cứu

Phải có đủ điều kiện khách quan đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài như: cơ sở thông tin, tư liệu, phương tiện, thiết bị thí nghiệm ( nếu cần phải tiến hành thí nghiệm), kinh phí cần thiết, quỹ thời gian và thiên hướng khoa học của người hướng dẫn hoặc của người lãnh đạo khoa học, các cộng tác viên có kinh nghiệm…

Các yếu tố trên được coi là những điều kiện cơ bản trong xuất phát điểm của công cuộc nghiên cứu, thiếu một trong những điều kiện trên thì việc nghiên cứu sẽ không đem lại kết quả mong muốn.

Các đề tài có thể được xây dựng từ việc phát hiện của các nhà sư phạm, hay các nhà nghiên cứu cơ sở, cũng có thể do cấp trên đưa tới, cũng có thể do đấu thầu mà dành được.

Có những đề tài độc lập, có đề tài tạo thành nhóm hay một chương trình nghiên cứu, cấp quốc gia, cấp bộ, nghành. Đăng ký đề tài là việc tự ý thức về khả năng và những điều kiện của cơ sở có thể thành công.

1.4. Một số vấn đề cụ thể trong việc xác định đề tài nghiên cứu

  1. Kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu lý luận và việc nghiên cứu giáo dục nghề nghiệp nói riêng
  2. Xác định tính chất của đề tài nghiên cứu

Tuỳ theo tính chất của đề tài, ta có thể có đề tài mang tính chất điều tra, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu cơ bản, thực nghiệm, tính hỗn hợp. Mỗi loại đề tài trên đều gồm những bước tiến hành nhất định, theo những trình tự và tính kế tục xác định.

  • Xác định lịch sử vấn đề nghiên cứu

Khi lựa chọn đề tài, người nghiên cứu cần xác định lịch sử vấn đề nghiên cứu để phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhằm xác định rõ mức độ nghiên cứu của các công trình đi trước,chỉ ra những mặt còn hạn chế, xác định những điều đề tài có thể kế thừa bổ xung phát triển… để chứng minh và đề xuất nghiên cứu đề tài nghiên cứu mới không lặp lại kết quả đã nghiên cứu trước đã công bố.

  • Xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung nghiên cứu. Xác định phạm vi nghiên cứu là xác định giới hạn về không gian của đối tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian để tiến hành nghiên cứu và giới hạn quy mô nghiên cứu được xử lý. Xác định được phạm vi nghiên cứu của đề tài giúp cho việc nghiên cứu đi đúng hướng, không lệch trọng tâm.

  • Phát biểu đề tài nghiên cứu

Vấn đề khoa học một khi đã được chủ thể chọn làm đối tượng nghiên cứu sẽ trở thành đề tài nghiên cứu và sau khi đã làm rõ mọi vấn đề liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thì đề tài được đặt tên, tức là phát biểu thành tên gọi.

Tên đề tài nghiên cứu là lời văn diễn đạt mô hình tư duy của kết quả dự kiến của quá trình nghiên cứu dưới dạng súc tích. Tên đề tài cũng diễn đạt lòng mong muốn của người nghiên cứu tác động vào đối tượng, cải tiến nó để cuối cùng đi đến những mục tiêu dự kiến.

Tên đề tài phải gọn, rõ, có nội dung xác định. Tên đề tài phải súc tích, ít chữ nhất nhưng nhiều thông tin nhất, chứa đựng vấn đề nghiên cứu, nó phản ánh cô đọng nhất nội dung nghiên cứu, chỉ được mang một ý nghĩa hết sức khúc chiết, đơn trị, không được phép hiểu nhiều nghĩa.

Tên đề tài được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp bao quát được đối tượng và hàm chứa nội dung và phạm vi nghiên cứu. Tránh đặt tên đề tài bằng những cụm từ mang nhiều tính bất định như “một số vấn đề…”, “ vài suy nghĩ về…”, “góp phần vào…”….

  1. Xây dựng đề cương nghiên cứu

2.1 Tầm quan trọng của việc xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học

Khi tiến hành nghiên cứu một đề tài khoa học thì một thao tác rất quan trọng là phải xây dựng một đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là văn bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình và các bước tiến hành để trình cơ quan và tổ chức tài trợ phê duyệt, nó là cơ sở để làm việc với các đồng nghiệp. Xây dựng đề cương nghiên cứu là một bước rất quan trọng, nó giúp cho người nghiên cứu giành được thế chủ động trong quá trình nghiên cứu. Có đề cương mới sắp xếp được kế hoạch chi tiết cho hoạt động nghiên cứu. Đề cương và kế hoạch tuy hai văn bản này có nhiều điểm tương tự nhưng thật ra về tính chất là khác nhau, kế hoạch chỉ vạch ra diễn biến, trình tự các hoạt động, còn đề cương đi vào các nội dung của việc nghiên cứu. Các nội dung nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng, đầy đủ trong một đề cương.

2.2 Nội dung của đề cương nghiên cứu khoa học

Nội dung của đề cương nghiên cứu thường bao gồm các nội dung sau đây:

  1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu và lịch sử vấn đề nghiên cứu

– Lý do chọn đề tài nghiên cứu (hay còn gọi là tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu).

Phần này yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do nào khiến tác giả chọn đề tài để nghiên cứu về mặt lý thuyết, về mặt thực tiễn, về tính cấp thiết, về năng lực nghiên cứu và sở thích cá nhân. Lý do chọn đề tài thường xuất phát từ những yêu cầu của thực tế công tác mà người nghiên cứu đảm nhiệm , hay từ việc phát hiện những thiếu sót, những hạn chế trong nghiên cứu lý thuyết chuyên ngành cần phải bổ sung, mà việc nghiên cứu này sẽ đem lại lợi ích hiện tại cho tương lai của khoa học và thực tiễn.

– Mục đích nghiên cứu

Mỗi đề tài nghiên cứu tuỳ theo phạm vi nghiên cứu của mình phải xác định rõ mục đích nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu là mục tiêu đề tài hướng tới, là định hướng chiến lược của toàn bộ những vấn đề cần giải quyết trong đề tài. Mục đích của các đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng tổ chức quản lý giáo dục nghề nghiệp.

– Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Phân tích sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu, từ trước đến nay đã có ai nghiên cứu, vào năm nào, ở trong nước hay nước ngoài, đã nghiên cứu đến đâu… Hay nói cách khác là làm rõ mức độ nghiên cứu của các công trình đi trước, chỉ ra mặt còn hạn chế và tìm thấy những điều mà đề tài có thể kế thừa bổ sung và phát triển… để chứng minh và đề xuất nghiên cứu đề...

22 tháng 8 2017

cop đâu mà dài vậy,ai mà đọc dc nổi cơ chứ phải lọc ý ra chứ

30 tháng 8 2017

Đột biến gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất sẽ tạo ra kiểu hình khác nhất so với kiểu dại.

ĐB A : làm trượt khung sao chép từ điểm đột biến → nghiêm trọng

ĐB B : Đột biến xảy ra ở promoter sẽ làm cho gen không được phiên mã, kiểu hình phụ thuộc vào alen còn lại trên cặp NST tương đồng

ĐB C : Đột biến xảy ra ở intron nên là vô hại

ĐB D : Mất đi 1 số axit amin trong chuỗi polypeptide nhưng có thể không thay đổi cấu hình không gian của protein

Vậy đột biến tạo hậu quả nghiêm trọng nhất A

Chọn A

20 tháng 11 2017

Đáp án C

Các chromait đã tách ra → kỳ sau, hoặc kỳ cuối  → loại B,D

Số lượng tế bào đã tăng gấp đôi → đã trải qua 1 lần phân bào nên không thể là kỳ sau I

20 tháng 4 2017

Chọn D. Một học sinh đang đọc sách giáo khoa.

Vì một học sinh bình thường thì không cần kính lúp để đọc sách giáo khoa, còn trường hợp A người thợ chữa đồng hồ cần kính lúp để quan sát những chi tiết nhỏ trong đồng hồ, nhà nông học cần kính lúp để quan sát những sâu bọ nhỏ mắt thường khó quan sát được còn nhà địa chất cần kính lúp để nghiên cứu mẫu quặng.