hãy nói những gì bạn biết về Newton
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


đám cháy rất lớn từ 1 căn nhà gây ra, nó có thể làm cho những nhà bên cạnh bị lửa lây sang

Phương pháp giải:
- Tìm hiểu câu chuyện Prô-mê-tê và loài người.
- Chia sẻ những hiểu biết về câu chuyện cho các bạn cùng lớp.
Lời giải chi tiết:
Xin chào thầy/cô và các bạn. Mình có tìm hiểu, từng đọc và nghe kể về thần thoại Hy Lạp. Đây chính là những tập hợp và truyền thuyết của người Hy Lạp cổ đại liên quan đến các vị thần, các anh hùng, bản chất của thế giới, nguồn gốc cũng như ý nghĩa của các tín ngưỡng, nghi lễ tôn giáo của họ. Prô-mê-tê và loài người là một trong những câu chuyện xuất sắc đó. Dưới đây là một số điều mình biết về thần thoại này.
- Prô-mê-tê là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp.
- Prô-mê-tê đã ăn trộm lửa của Trời và trao cho loài người à cuộc sống của loài người dần được cải thiện.
- Thần Prô-mê-tê rất thương loài người, luôn luôn tìm cách giúp cho loài người đỡ khổ cực.
- Em đã từng đọc và nghe kể về thần thoại Hy Lạp và câu chuyện Prô-mê-tê và loài người chưa
- Thần thoại Hy Lạp là tập hợp những huyền thoại và truyền thuyết của người Hy Lạp cổ đại liên quan đến các vị thần, các anh hùng, bản chất của thế giới, và nguồn gốc cũng như ý nghĩa của các tín ngưỡng, các nghi lễ tôn giáo của họ.
- Truyện Prô-mê-tê và loài người sẽ nói về vấn đề quan hệ, sự giúp đỡ của Prô-mê-tê với loại người.

- Tôi chưa từng được đọc những câu chuyện về thần thoại Hy Lạp cũng như chưa từng đọc qua câu chuyện Prô – mê – tê và loài người
- Tuy nhiên, khi đọc văn bản Prô – mê – tê và loài người em đoán được nội dung mà văn bản này đè cập tới là sự ra đời của con người trên trái đất.

- Nguyễn Du là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Quê ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - XIX. Chính yếu tố này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngòi bút của Nguyễn Du về hiện thực đời sống. Sự nghiệp văn học của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả về chữ Hán và chữ Nôm. Tiêu biểu như "Thanh Hiên thi tập", "Đoạn trường tân thanh",...
- Việc tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của đại thi hào Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng cho việc đọc hiểu các sáng tác của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng:
+ Giúp chúng ta hình dung rõ nét về đặc điểm sáng tác của Nguyễn Du, đó là: thể hiện tư tưởng, tình cảm, tính cách của tác giả.
+ Hơn thế nữa, các tác phẩm mà đặc biệt là Truyện Kiều đều thể hiện tư tưởng nhân đạo rõ nét.
+ Qua đó, chúng ta hiểu được sâu sắc nguyên nhân tại sao các tác phẩm mà ông đưa đến cho bạn đọc đều thu hút và thành công đến thế.

saac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.
Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.
Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắcánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.
Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.
Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.[3]
Mục lục
[ẩn]
- 1Sự nghiệp
- 2Tiểu sử
- 3Nghiên cứu khoa học
- 3.1Quang học
- 4Quả táo Newton
- 5Tác phẩm
- 5.1Xuất bản khi sinh thời
- 5.2Xuất bản sau khi qua đời
- 5.3Nguồn sơ cấp
- 6Xem thêm
- 7Chú thích
- 8Thư mục tham khảo
- 9Đọc thêm
- 10Liên kết ngoài
- 10.1Do Newton viết
Sự nghiệp
Newton năm 1702, vẽ bởi Godfrey Kneller
Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. Khi ông ở quãng tuổi từ khoảng 12 đến 17, ông học tại King's School, Grantham, nơi mà ông chỉ học tiếng Latinh và không có Toán. Sau đó, ông rời khỏi trường và đến tháng 10 năm 1659, ông có mặt tại Woolsthorpe-by-Colsterworth, nơi mà mẹ ông, lần thứ hai góa bụa, đang cố gắng khiến ông trở thành một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thầy của ông tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho ông quay trở lại trường học để ông có thể tiếp tục việc học của mình.
Vào tháng 6 năm 1661, Newton được gửi tới Đại học Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ trường phái Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René Descartes. Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố ngay.
Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ đạo của một hạt khi bay từ vũ trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa xuân năm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho vật lý của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa.
Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các định nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II trình bày các phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi nhà thiên văn John Flamsteedkiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương trình của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra và giải được bài toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.
Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa như sau:
- Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
- Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.
- Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.
- Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opks(Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":
Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.
Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.
Theo quyển Opks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát thấy các vòng giao thoa mà ngày nay gọi là vòng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.
Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a. Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.
Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.
Newton đã một mình đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài ngư...
Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.
Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathemaa (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.
Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắcánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.
Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.
Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.[3]
Isaac Newton nổi tiếng là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất từng sống. Điều ít được biết hơn là đức tin sâu đậm của ông với Đức Chúa Trời và niềm tin của ông rằng nghiên cứu khoa học đem đến hiểu biết lớn hơn về Chúa-Đấng Sáng Tạo của vũ trụ.
Isaac Newton sinh ra ở Woolhorpe, Lincolnshire, nước Anh vào lễ Giáng Sinh năm 1642. Trong đêm đông lạnh giá ấy, đứa bé bệnh tật sinh non xem ra không có hi vọng sống. Tuy nhiên, dần dần, em bé trở nên đủ mạnh để sống. Nhưng những năm đầu của Isaac là một giai đoạn đầy khó khăn. Mẹ của ông trở thành góa phụ chỉ hai tháng trước khi Isaac được sinh ra. Ngay cả khi được bà ngoại giúp đỡ, người mẹ vẫn gặp khó khăn chăm sóc cho Isaac bên cạnh việc chăm lo cho nông trại khi mà cuộc nội chiến nước Anh đang diễn ra khốc liệt xung quanh họ.
Vài năm sau, mẹ ông lấy một mục sư từ vùng North Witham gần đó, nhưng Isaac ở lại Woolthorpe với bà ngoại mình. Dù vậy, khi ông lớn lên ông đi thăm mẹ mình thường xuyên hơn. Ông rất hào hứng khi đọc sách từ thư viện đầy sách của cha dượng mình, cũng như đọc kinh thánh thường xuyên.
Isaac đi học tại Học Viện Nhà Vua (King’s College) ở gần vùng Grantham. Thay vì chơi các trò chơi ngoài trời như các cậu bé khác, ông thích làm những mô hình các vật như cối xay gió hay xe kéo. Các mô hình này không những có tỉ lệ như thật, mà những bộ phận máy cũng thực sự hoạt động.
Mẹ Isaac lại trở thành góa phụ lần nữa khi ông 14 tuổi. Isaac phải rời trường để chăm sóc nông trại gia đình giúp mẹ và 3 em nhỏ của mình. Tuy nhiên, Isaac nhớ da diết việc đi học của mình và mẹ ông nhận thấy điều ấy. Khi Học Viện Nhà Vua đề nghị cho miễn phí tiền học vì năng lực ông và hoàn cảnh nghèo, Isaac đã quay lại và hoàn tất việc học của mình. Các thầy giáo và những học viên khác rất ấn tượng bởi kiến thức Kinh Thánh của cậu bé.
Dự định trở thành một mục sư
Sau đó Isaac đến Học Viện Trinity ở Đại Học Cambridge với dự định trở thành mục sư của giáo hội Anh. Một lần nữa, cuộc sống không dễ dàng với ông. Bởi vì ông không có khả năng trả học phí, ông phải làm việc nhiều giờ mỗi ngày phục vụ bữa ăn và làm những việc khác cho các giáo sư để trả tiền học. Kiến thức về Kinh Thánh của Isaac tiếp tục gây ấn tượng cho mọi người xung quanh.
Vào thời đó những ý tưởng của cái học giả Hy Lạp cổ đại vẫn thống trị những gì được dạy trong khoa học, và những phát hiện khoa học mới phần lớn bị phớt lờ. Điều này khiến Isaac Newton rất bất bình vì ông tin chắc rằng mọi ý tưởng trong khoa học phải được thử nghiệm và chỉ được công nhận nếu những điều hữu ích của nó được chứng minh. Ông cam kết theo phương pháp thực nghiệm của khoa học.
Isaac tốt nghiệp năm 1665, ngay trước đợt dịch hạch “Cái Chết Đen” bùng phát và quét qua London. Mọi trường đại học bị đóng cửa khi dịch hạch hoành hành. Trong lúc này, Isaac trở về nông trang của mình, hiện giờ đang được quản lý bởi người em cùng mẹ khác cha của mình. Ông tiếp tục việc học và nghiên cứu của mình về định lý nhị thức, ánh sáng, kính thiên văn, vi phân và thần học. Nghe nói là sau khi thấy trái táo rơi trong vườn, ông tìm hiểu về trọng lực, nhưng không tìm ra được lời giải cho đến vài năm sau. (Cũng lưu ý là nhiều chuyên gia nghi ngờ câu chuyện quả táo này. Họ nói câu chuyện này được nhắc tới lần đầu từ triết gia phản đối và hoài nghi tôn giáo người Pháp, Voltaire, người được cho là đã nghe nó từ cháu nội của Newton.)
Cuộc cách mạng trong toán học
Newton áp dụng định lý nhị thức vào chuỗi vô hạn và từ đó phát triển vi phân, một dạng mới cách mạng trong toán học. Lần đầu tiên chúng ta có thể tính chính xác diện tích bên trong một hình gồm các đường cong, và tính tốc độ thay đổi của một lượng vật lý so với một lượng khác. Một hệ thống toán học tương tự được phát triển bởi nhà toán học người Đức Gottfried Leibniz. Trong một thời gian dài đã có sự mập mờ lớn, người này tố cáo người kia ăn cắp thành tựu của mình. Đó là một giai đoạn mệt mỏi cho cả hai. Nhiều năm sau, nó đã được công nhận là cả hai đã phát triển vi phân độc lập gần như cùng lúc. Không ai gian lận cả.
Newton dùng lăng kính để cho thấy ánh sáng mặt trời được tạo thành bởi tất cả các màu của cầu vồng. Điều này chứng minh rằng các ý tưởng của Hy Lạp cổ đại về ánh sáng là sai.
Quang học
Khi Đại Học Cambridge mở cửa lại năm 1667, Isaac Newton trở lại học Thạc Sĩ, trong khi giảng dạy và nghiên cứu.
Newton dùng lăng kính để cho thấy ánh sáng mặt trời được tạo thành bởi tất cả các màu của cầu vồng. Điều này chứng minh rằng các ý tưởng của Hy Lạp cổ đại về ánh sáng là sai. Vào thời của Newton, thiên văn học bị kìm hãm vì các thấu kính của kính thiên văn tách ánh sáng ra làm nhiều màu, khiến nhìn không rõ. Dù không phải là người đầu tiên nghĩ đến chuyện dùng gương cong thay cho thấu kính, Newton là người đầu tiên thành công trong việc xây dựng kính thiên văn dựa trên nguyên tắc này – một nguyên tắc vẫn được dùng ngay nay trong nhiều kính thiên văn.
Hội Hoàng Gia
Năm 1672, Newton trở thành một thành viên của Hội Hoàng Gia – một nhóm các nhà khoa học cam kết với phương pháp khoa học thực nghiệm. Ông trình bày một trong những kính thiên văn mới cùng với những khám về ánh sáng của mình. Hội Hoàng Gia thiết lập một hội đồng lãnh đạo bởi nhà vật lý Robert Hooke để đánh giá những phát hiện của Newton. Hooke là một nhà khoa học làm việc cho Hội Hoàng Gia để đánh giá những phát minh mới. Tuy nhiên, Hooke đã sẵn có những ý tưởng của mình về ánh sáng và chậm chấp nhận những sự thật mà Newton đã tìm ra. Điều này làm Newton ngạc nhiên và thất vọng, khiến ông từng nghĩ đến việc không báo cáo những phát hiện sau này của mình.
Dù có người nghĩ rằng Newton quá nhạy cảm với những đánh giá của người khác về công trình của mình, ông chỉ đơn giản lo ngại rằng việc bảo vệ những phát hiện cũ sẽ làm mất thời gian của ông trong việc tìm kiếm những phát hiện mới.
Ảnh hưởng của chính trị
Isaac Newton sống vào thời mà chính trị, tôn giáo và giáo dục không tách rời. Vua Charlesđệ nhị yêu cầu tất cả những ai dạy ở nơi như Học Viện Trinity, nơi đào tạo mục sư của giáo hội Anh, cũng phải được phong chức mục sư giáo hội Anh sau bảy năm. Kể cả những người như Newton chỉ dạy toán học và khoa học, không dạy thần học.
Mặc dù là một Cơ Đốc nhân thành tín, Newton không hoàn toàn đồng ý với tất cả các giáo điều của Giáo Hội Anh. Vậy nên lương tâm không cho phép ông nhận chức.1 Ông cũng chống đối mạnh mẽ việc các nhà chính trị nhúng tay vào những việc của tôn giáo và giáo dục. Cách duy nhất để Newton có thể giữ việc là được đích thân nhà vua miễn trừ cho trường hợp của mình. Trước đây nhiều người đã từng xin điều này nhưng đều bị từ chối.
Vậy nên Newton đi xuống phía nam đến London sáu tuần để xin nhà vua miễn trừ cho trường hợp của mình. Trong thời gian ở London, ông làm quen với nhiều nhà khoa học khác trong Hội Hoàng Gia. Những người trước đây chỉ biết đến ông qua thư bảo vệ những khám phá của mình đã hiểu lầm sự tự tin của ông là ngạo mạn. Sự nôn nóng muốn làm tiếp công trình mới của ông bị hiểu lầm là nóng tính. Giờ khi họ biết ông là một người thân thiện và tế nhị như thế nào, họ ra sức giúp ông. May mắn thay, cho Newton và cho nền khoa học, nhà vua chấp nhận lời thỉnh cầu của Newton được tiếp tục làm ở Học Viện Trinity mà không cần phải được phong chức.
Tập trung vào trọng lực
Vào thời của Newton, nhiều người mê tín hoặc lo sợ những việc họ không hiểu, như sự xuất hiện của sao chổi, một điều được xem như là dấu hiệu của thảm họa đang tới. Ngay cả những nhà khoa học cũng thường nghĩ rằng chuyển động của các hành tinh và chuyển động của vật thể trong trái đất là hai vấn đề khác nhau. Ngược lại, Newton lập luận rằng vì cùng một Đức Chúa Trời sáng tạo nên các tầng trời lẫn dưới đất, nên cùng một qui luật tự nhiên được áp dụng mọi nơi.
Năm 1684, Newton một lần nữa bắt đầu xem xét trọng lực. Ông phát triển lý thuyết về trọng lực toàn vũ trụ, sử dụng định luật đảo nghịch bình phương. Ông cũng phát triển ba định luật về chuyển động và chứng minh bằng toán học rằng những định luật đó đúng là cùng được áp dụng trên các tầng trời lẫn dưới đất. Đức tin của ông đã tập trung những suy nghĩ của ông vào hướng đi đúng.
Khi Newton đang nghiên cứu chuyển động của các hành tinh, ông thấy khá rõ ràng bàn tay của Chúa đang làm việc. Ông viết rằng:
“Hệ thống đẹp nhất của mặt trời, các hành tinh, và các sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ ý định và sự tể trị của một Đấng trí tuệ… Đấng này tể trị mọi vật, không phải như là linh hồn của thế gian, nhưng là Chúa của tất cả, và vì sự tể trị của Ngài mà Ngài sẽ được gọi là “Chúa Toàn Năng” Παντοκράτωρ [Pantokratōr ở 2 Cô-rinh-tô 6:18], hay “Chủ của muôn vật”… Thần Tối Cao là Đấng vĩnh hằng, vô tận và tuyệt đối hoàn hảo.2
Trái với sự tin kính là vô thần trong suy nghĩ và thờ cúng thần tượng trong hành động. Chủ nghĩa vô thần thật là vô nghĩa và đáng khinh với nhân loại đến độ nó chẳng bao giờ có nhiều người xưng nhận.3
Một lần nữa Newton gặp khó khăn với người cạnh tranh cũ của mình Robert Hooke. Một số nhà khoa học tin rằng định luật đảo nghịch bình phương có thể được áp dụng, nhưng họ không thể chứng minh được rằng điều này sẽ tạo ra quỹ đạo hình ê-líp quan sát được bởi nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler. Dù rằng Hooke khoe khoang điều ngược lại, ông ta cũng thất bại trong việc chứng minh. Ngược lại, Newton thành công, nhưng Hooke vẫn muốn được một phần công.
Hội Hoàng Gia không muốn bị xem là theo phe nào. Điều này, cộng với thiếu thốn về tài chính, khiến hội Hoàng Gia ngần ngại xuất bản quyển sách nổi tiếng của Newton “Principia Mathemaal” (Nguyên tắc toán học). Bạn của Newton, nhà thiên văn học Edmon Halley, giúp ông và dùng tài chính riêng của mình để xuất bản quyển sách gồm ba phần của Newton vào năm...
Bạn tham khảo ở link này :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isaac_Newton