Viết bài văn về chiến tranh 1943: Chiến với quân nhật.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Đáp án B
Ngày 18-8-1965, Mĩ huy động 9000 quân cùng nhiều phương tiện vũ khí chiến tranh hiện đại mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường nhằm tiêu diệt đơn vị chủ lực của quân giải phóng, nhưng thất bại. Chiến thắng Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với quân Mĩ, mở đầu cao trào “tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam

cuộc chiến tranh từ ngày 1/9/1939 đến đầu năm 1943 là cuộc chiến tranh phi nghĩa vì nó chỉ mang lợi ích cho tư bản mà không mang lại quyền lợi cho nhân dân mà nếu tư bản thu thì người gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh nặng nề nhất không ai khác đó chính là quần chúng nhân dân (thật là bất công đúng không nào những kẻ chân ngòi cho cuộc chiến tranh phi nghĩa đó không hướng chịu hết trách nghiệm của mình mà lại đẩy cho người vô sản thân thiện thật thà). nhưng từ năm 1943 dến tháng 8/1945 thì các cuộc chiến tranh đó là các cuộc khởi ngĩa dành lại độc lập cho quần chúng nhân nhân và mang lại những điều tốt đẹp mà nhân dân cần được hưởng(đó là quyền tự do, xã hội ổn dịnh và phát triển, nhu cầu hạnh phúc của nhân dân). nói ngắn gọn cuộc chiến tranh từ ngày 1/9/1939 dến đầu năm 1943 là cuộc chiến tranh phi nghĩa không mang lại lợi ích cho nhân dân còn cuộc chiến tranh kể từ đầu năm 1943 đến tháng 8/1945 là cuộc chiến tranh chính nghĩa vì nó mang lại lợi ích cho nhân dân
chính vì những điều đó nên có thể nói cuộc chiến tranh từ ngày 1/9/1939 đến đầu năm 1943 là cuộc chiến tranh vô nghĩa còn cuộc chiến tanh từ đầu năm 1943 dến tháng 8/1954 là cuộc chiến tranh chính nghĩa

Đáp án A
Thắng lợi của quân dân miền Bắc trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ với đỉnh cao là trận “Điện Biên Phủ trên không” đã cho thấy mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao là: thắng lợi trên mặt trận quân sự quyết định thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Ngược lai thắng lợi trên mặt trận ngoại giao phản ánh và phát huy thắng lợi trên mặt trận quân sự

Đáp án B
Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968) của quân dân miền Bắc đã thể hiện sáng ngời chân lý “Không gì quý hơn độc lập, tự do” của chủ tịch Hồ Chí Minh

1. Trên mặt trận chống phá “bình định”
- Năm 1962, Quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh,…
- Cuộc đấu tranh chống và phá “ấp chiến lược” diễn ra gay go quyết liệt giữa ta và địch. Đến cuối 1962 trên nửa tổng số ấp và 70% nông dân vẫn do cách mạng kiểm soát.
- Đến giữa năm 1965, chỉ còn kiểm soát 2.200 ấp.
2. Trên mặt trận đấu tranh chính trị
- Diễn ra sôi nổi ở các đô thị lớn như: Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.
- Ngày 11 - 6 - 1963, trên đường phố Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm.
- Ngày 16 - 6 - 1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm rung chuyển chế độ Sài Gòn.
- Ngày 1 - 11 - 1963, Mĩ làm đảo chính lật đổ chế độ Diệm - Nhu với hy vọng ổn định tình hình.
3. Trên mặt trận quân sự
- Ngày 2 - 1 - 1963, quân dân ta giành thắng lợi vang dội ở trận Ấp Bắc (Mỹ Tho), đánh bại cuộc hành quân càn quét của hơn 2.000 quân đội Sài Gòn có cố vấn Mĩ chỉ huy. Sau trận Ấp Bắc, khắp miền Nam đã dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
- Lực lượng quân giải phóng liên tiếp mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đông - Xuân 1964 - 1965 trên các chiến trường miền Nam và miền Trung.
⟹ Với những chiến thắng dồn dập, quân dân ta ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.

Đáp án C
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 đã buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược- tức là thừa nhận sự thất bại của “chiến tranh cục bộ”, rút dần lực lượng quân Mĩ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, chuyển sang thực hiện một chiến lược mới
Cuộc chiến chống lại quân đội Nhật Bản năm 1943: Một trang sử bi tráng
Năm 1943 là một năm đầy biến động và đau thương đối với nhiều quốc gia châu Á, đặc biệt là Việt Nam, khi đất nước phải đối mặt với một kẻ thù hung bạo và tàn ác: đế quốc Nhật Bản. Cuộc chiến này không chỉ là một cuộc đấu tranh vũ trang mà còn là một cuộc đấu tranh sinh tồn, bảo vệ dân tộc trước những chính sách cai trị hà khắc và tội ác diệt chủng của phát xít Nhật.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Nhật Bản đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ và đặt chân lên Đông Dương. Chúng đã sử dụng chiến lược "liên minh" với thực dân Pháp để bóc lột tài nguyên và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tuy nhiên, bản chất tham lam và tàn bạo của chúng sớm bộc lộ. Năm 1943, nạn đói khủng khiếp đã hoành hành khắp Việt Nam, giết chết hơn 2 triệu người. Nạn đói này không phải là do thiên tai mà là hệ quả của chính sách vơ vét lương thực, thóc gạo của quân đội Nhật để phục vụ cho cuộc chiến tranh của chúng. Hình ảnh những người dân gầy gò, đói rách, nằm chết la liệt bên lề đường đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng trong lịch sử dân tộc.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Bác Hồ đã nhận thấy rõ bản chất của quân đội Nhật và đã chủ trương thành lập các đội du kích, căn cứ cách mạng để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, các phong trào chống Nhật đã bùng lên mạnh mẽ. Các đội du kích đã sử dụng chiến thuật "du kích chiến", "nhân dân chiến" để tấn công các đồn bốt, kho tàng của địch. Mặc dù vũ khí thô sơ, lực lượng nhỏ bé nhưng với tinh thần yêu nước, dũng cảm, quân và dân ta đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho quân đội Nhật. Những chiến thắng nhỏ lẻ đã trở thành nguồn động viên to lớn, thắp lên ngọn lửa hy vọng trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Năm 1943, cuộc chiến chống Nhật Bản không chỉ diễn ra ở chiến trường mà còn diễn ra trên mặt trận chính trị. Mặt trận Việt Minh đã liên kết các tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân, trí thức đến tư sản dân tộc, cùng nhau đứng lên chống lại kẻ thù chung. Bằng những khẩu hiệu, những tuyên truyền hiệu quả, Việt Minh đã vạch trần tội ác của phát xít Nhật, kêu gọi nhân dân đồng lòng, đoàn kết, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành độc lập.
Cuộc chiến năm 1943 đã trở thành một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ cho thấy sự tàn bạo, độc ác của đế quốc Nhật mà còn khẳng định tinh thần bất khuất, ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam. Mặc dù phải chịu nhiều đau thương, mất mát nhưng chính trong gian khó, nhân dân ta đã rèn luyện, trưởng thành, chuẩn bị cho thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày nay, khi nhìn lại trang sử bi tráng năm 1943, chúng ta càng trân trọng hơn nữa giá trị của độc lập, tự do. Chúng ta mãi ghi nhớ công ơn của các thế hệ cha ông đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, để chúng ta có được cuộc sống hòa bình, hạnh phúc như ngày hôm nay.
Năm 1943, trong bối cảnh Thế chiến thứ II đang diễn ra ác liệt, Việt Nam phải chịu ách thống trị kép của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, trong đó có những trận chiến oanh liệt của quân và dân ta chống lại sự tàn bạo của quân đội Nhật.
Bối cảnh lịch sử
Từ năm 1940, Nhật đưa quân vào Đông Dương, biến nơi đây thành căn cứ quân sự. Chúng bóc lột nhân dân ta bằng chính sách "Nhổ lúa trồng đay", gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến hơn 2 triệu người chết. Trước tội ác đó, nhiều phong trào kháng Nhật đã bùng nổ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Việt Minh.
Những trận chiến ác liệt
Năm 1943, lực lượng du kích và quân giải phóng liên tiếp tấn công đồn bốt Nhật. Tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, nhiều trận phục kích khiến quân Nhật tổn thất nặng. Đặc biệt, trận đánh đồn Phai Khắt (Cao Bằng) do đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thực hiện đã tiêu diệt nhiều lính Nhật, thu vũ khí, cổ vũ tinh thần nhân dân.
Hậu quả và ý nghĩa
Dù lực lượng còn non yếu, những trận đánh năm 1943 đã góp phần làm suy yếu quân Nhật, chuẩn bị tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám 1945. Sự hy sinh của các chiến sĩ là minh chứng cho lòng yêu nước và ý chí "thà chết tự do còn hơn sống nô lệ".
Kết luận
Cuộc chiến chống Nhật năm 1943 là trang sử bi hùng của dân tộc. Nó nhắc nhở thế hệ trẻ phải ghi nhớ công ơn của những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tham khảo