Em hãy trình bày những hiểu biết của mình về môi trường
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


đặc điểm môi trường :
-hoang mạc : Cực kì khô hạn, thể hiện ở lượng mưa rất ít và lượng bốc hơi cao. Tính chất khắc nghiệt của khí hậu thể hiện ở sự chênh lệch nhiệt độ hoá ngày và năm lớn.
-vùng núi : ở vùng núi, khí hậu và thực vật thay đổi theo độ cao. Càng lên cao không khí càng loãng dần, cứ lên cao l00 m nhiệt độ không khí lại giảm 0,6°C. Từ trên độ cao khoảng 3000m ở đới ôn hoà và khoảng 5500 m ở đới nóng là nơi có băng tuyết phủ vĩnh viễn.
Sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm không khí từ chân núi lên đỉnh núi đã tạo nên sự phân tầng thực vật theo độ cao, gần giống như khi chúng ta đi từ vùng vĩ độ thấp lên vùng vĩ độ cao.
*Thế thì mình trả lời nốt cho:
Môi trường biển và đại dương chiếm diện tích rất lớn, gấp khoảng 3 lần diện tích các lụa địa. Trên thế giới có bốn đại dương với nhiều biển. Các đại dương đều có kích thước lớn và thông với nhau, nhưng mỗi đại dương lại có sự khác nhau về diện tích, độ sâu, nhiệt độ,...
Biển và đại dươnglà nguồn cung cấp hơi nước vô tận cho khí quyển, là kho tài nguyên lớn. Theo số liệu thống kê gần đây, ở biển và đại dương có trên 160 nghìn loài động vật và 10 nghìn loài thực vật. Trong lòng đất dưới đáy biển và đại dương có nhiều loại khoáng sản, nhất là dầu mỏ và khí tự nhiên. Ngoài ra, biển và đại dương còn cung cấp muối, tạo nguồn điện ( điện thủy triều),... phát triển giao thông vận tải và du lịch

Quê em nằm ở phía Bắc tỉnh Khánh Hoà, nơi có nhiều hải sản và đảo Yến, có nhiều cánh đồng bát ngát lúa thơm. Mời mọi người hãy ghé thăm quê em, thị xã Ninh Hoà với những cánh đồng làng sản xuất lúa một năm ba vụ, nơi phát triển ngành nghề tiểu thủ công mĩ nghệ xuất khẩu. Mọi người hãy dạo chơi ở phố, băng qua chợ Dinh để cảm nhận làn gió mát từ sông thổi vào khu phố chợ. Cảnh phố, cảnh quê hoà hợp như tấm lòng mộc mạc của những nông dân và ngư dân miền biển. Và mọi người hãy dạo chơi ở Dốc Lết, mũi Hòn Khói, nơi cực Đông của Tổ quốc. Bãi tắm ở đây phô triền cát trắng, tiếp giáp với vùng biển xanh mênh mông. Em rất yêu và tự hào về cảnh đẹp của quê em.
Quê hương..!
Trong trái tim mỗi người Việt Nam, tình yêu quê hương có lẽ là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Mỗi người sinh ra, ai mà không có cội nguồn gốc gác, ai mà không có quê hương. Quê hương là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi chôn rau cắt rốn của ta. Quê hương cho ta những kỷ niệm ngọt ngào, cho ta tuổi thơ tươi đẹp. Quê hương dạy ta những bài học làm người đầy ý nghĩa, để cho ta lớn khôn và trưởng thành. Với tôi, quê hương có một vị trí vô cùng đặc biệt, chiếm một vị trí quan trọng trong trái tim tôi.
Vùng quê tôi nghèo lắm. Con người sống chủ yếu bằng nghề nông, ngày ngày làm việc trên cánh đồng, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cuộc sống cơ cực, vất vả, đầy khó khăn, thiếu thốn, có những lúc còn không đủ ăn, đủ no. Mặc dù sống trong cảnh bần hàn, khó khăn là thế, nhưng con người nơi đây sống có tình có nghĩa. Xóm làng yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Họ sống với một tình cảm chân thành, chất phác, trong sáng, một thứ tình cảm chỉ có ở những người nông dân nghèo. Quê hương Hưng Yên chính là nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, đó cũng là nơi đã cho tôi tuổi thơ tươi đẹp, ngọt ngào. Có thể nói, tôi sinh ra trong sự yêu thương của gia đình và lớn lên trong sự đùm bọc, ấm áp tình làng nghĩa xóm.
Xa quê hương từ bé. Cho nên, nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, tôi đã khóa chặt trong ký ức. Những lần từ HN trở lại quê hương thường gắn liền với những mất mát vô cùng to lớn đối với tôi và gia đình. Vì vậy, có nhiều ký ức vẫn nằm sâu trong ngăn kéo trái tim. Giờ đây mới có dịp trở về thăm quê hương, ký ức bỗng nhiên tràn về. Những cảm xúc khó diễn ta tràn ngập trong cõi lòng. Tôi sanh ra vào một ngày hè oi bức trên quê hương. Ngày ấy, gia đình tôi cũng nghèo lắm. Tuổi thơ tôi 4 năm sống trên quê hương. Quãng thời gian ấy đủ cho tôi có những ký ức, kỷ niệm ngọt ngào. Khi mới sanh ra đời, tôi bụ bẫm, đáng yêu lắm (Chứ không đáng ghét như bây giờ đâu). Xóm làng, ai cũng yêu quí và thích bế tôi. Dòng sữa ngọt ngào, mát lành đã nuôi tôi lớn suốt thời thơ ấu không chỉ của mẹ tôi. Tôi ở quê với mẹ và anh trai. Cha tôi một mình trên HN cực nhọc kiếm từng đồng tiền gửi về quê, không có điều kiện về thăm mẹ con thường xuyên. Một mình mẹ tôi với hai anh em nơi quê nghèo xoay sở hết sức khó khăn. Chính những lúc khó khăn ấy, sự cưu mang, đùm bọc của làng xóm đã cho mẹ con tôi động lực để vượt qua tất cả, cho tôi những kỷ niệm ngọt ngào. Tôi nhớ thời bé thơ được mọi người bồng bé, âu yếm, hát cho tôi nghe những lời hát ru đưa tôi vào giấc ngủ, nhớ những dòng sữa mát lành nuôi tôi lớn khôn. Tôi nhớ cả những lần ngôi trên thúng được mẹ gồng gồng gánh gánh theo ra đồng; nhớ mùi thơm béo ngậy của những con muôm muỗm, mẹ bắt ngoài đồng, dùng đóm nướng cho ăn. ( Đóm là những cây que rất mỏng, vót từ cây tre, rồi phơi khô, dùng để hút điếu cầy và thắp đèn ngày xưa). Tôi nhớ cả những lần lễ tết, xóm làng mổ lợn đêm, mình thức trắng đêm xem mổ lợn chỉ để xin cái đuôi. Tôi nhớ mùi thơm của hương lúa, rơm rạ, mùi hương dịu nhẹ của hoa nhài, hoa bưởi; nhớ những cánh đồng mênh mông, bát ngát; nhớ ao nước bầy vịt; nhớ cây gạo đầu đình; nhớ bụi tre xanh; nhớ mỗi tối hàng xóm quây quần ngồi hát, mình ngủ trong lòng mẹ lúc nào không hay; nhớ cây kẹo kéo, kẹo mút, nhớ hạt bỏng ngô; nhớ hòn bi ve; nhớ cả những hàng vải um tùm, chi chít quả; nhớ trẻ dắt trâu ăn cỏ ngoài đồng, dắt bò về nhà mỗi tối, nhớ bãi phân trâu; nhớ những mái nhà lợp ngói, câu cau hoa rụng sân nhà, con chó con mèo nằm sưởi nắng; nhớ tiếng ếch nhái kêu ồm ộp… Giờ đây đứng trên đất quê hương, nhìn trên bầu trời đêm sao sáng, tôi lại nhớ những đêm cùng nhau đùa rỡn dưới trăng, rồi khi mệt nhoài, nằm lăn ra sân ngắm sao trời lung linh. Tôi nhớ cảnh thanh bình nơi quê hương. Tôi nhớ ông nội tôi. Tôi là đứa cháu được ông cưng chiều nhất. Ông nội là người thường cõng tôi đi chợ và mua cho tôi rất nhiều quà bánh. Ông nội thường xuyên dắt tôi đi chơi, thăm làng thăm xóm. Tên của tôi do chính ông đặt. Và ông nội cũng chính là người dạy tôi học ăn, học nói, dạy cho tôi những bài học đạo đức đầu tiên. Nhiều ký ức đẹp tôi có được từ ông. Tuổi thơ tôi ấm áp tình cảm ông nội dành cho tôi. Mặc dù ông nội đã mất từ khi tôi còn rất nhỏ, nhưng tình cảm ông nội dành cho tôi suốt đời không quên. Có thể nói, tình làng nghĩa xóm, cảnh vật thanh bình nơi quê hương đã in dấu trong tôi những ký ức thật đẹp đẽ, ngọt ngào, khiến cho tình yêu quê hương đối với tôi trở lên thiêng liêng.
Người dân quê tôi tôn thờ đạo Phật lắm. Ai cũng có Phật ở trong tâm. Vì thế, dù rất nghèo nhưng mọi người luôn tâm niệm: “ Đói cho sạch, rách cho thơm”. Họ sống trong sáng, giản dị. Làng xóm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau: “ Lá lành đùm lá rách”, hay “ Lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Cho nên, dù cho cuộc sống thiếu thốn, nhưng con người nơi đây vẫn luôn vui vẻ, lạc quan. Và nét đẹp tôi thấy được từ người dân quê, cũng như ở mẹ tôi, đó là sự chân thật. Mọi tình cảm mà người dân nơi đây dành cho nhau đều rất chân thành, trong sáng. Tôi nhìn những cụ già và trẻ nhỏ nơi quê nhà, ở họ toát lên một nét gì đó thật an bình. Nhưng người dân quê tôi tôn thờ đạo Phật không chỉ vì đạo Phật dạy cho con người ta cách sống lạc quan trước những khó khăn. Mà điều quan trọng, đạo Phật dạy con người sống phải có hiếu. Có lẽ vì thế, một nét đẹp mà tôi thấy được ở người dân quê, đó là: “ Họ sống có thứ tự trên dưới, kính trên nhường dưới. Mỗi khi có của ngon vật lạ, trước tiên phải mời tổ tiên ông bà trước, sau đó mới nhường con cháu. Mọi người sống trong cùng một gia đình, dòng họ sống đoàn kết, gắn bó, không bao giờ cãi vã hay to tiếng”. Người dân nơi đây sống luôn nhớ về cội nguồn, gốc gác. Vì thế, quê hương tôi có rất nhiều đình chùa, miếu thờ đâu cũng thấy. Mỗi nhà đều có một bàn thờ tổ tiên, quanh năm thắp hương khấn bái. Mỗi dịp cuối năm, tết đến xuân về. Dù cho có bận việc đồng áng đến thế nào, mọi người ai cũng đến mộ tổ tiên, ông bà thắp hương, cho tròn đạo hiếu, tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Tất cả đều là những nét văn hóa thật đẹp vẫn còn đọng lại trong ký ức tôi.
Nhân ngày tết ông công ông táo năm nay, tôi có dịp trở về quê nhà cùng với mẹ đi tảo mộ. Tôi trở về quê hương để nhớ về cội nguồn; trở về quê hương để tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên, ông bà; trở về quê hương để làm sống dậy những ký ức một thời thơ ấu; trở về quê hương để thấy mình khôn lớn và trưởng thành; trở về quê hương để thấy nơi đây đã giàu mạnh và ngày càng đổi mới… Tôi vui lắm khi thấy ông bà ngoại tôi, dù đã gần 80 tuổi nhưng vẫn còn khỏe mạnh; vui vì thấy làng xóm, ai cũng nhớ thằng kết bé nhỏ này nào, ai cũng nhận ra mình, tay bắt mặt mừng; vui vì được nhìn thấy cảnh đồng quê, cánh đồng, sống nước ngày xưa; vui vì thấy quê hương đổi mới, mọi người đã có cuộc sống no đủ, nhà cửa khang trang hơn, điện nước đầy đủ, nhà ai cũng có tivi, xe máy…
Nhưng điều làm tôi vui mừng hơn cả, đó là: Tình cảm của làng xóm dành cho tôi vẫn như xưa, không hề thay đổi. Cảnh thanh bình của làng quê mà ngày xưa tôi đã thấy, trong mất tôi giờ đây vẫn còn đấy. Thật đáng tiếc! Vì tôi không có máy ảnh để chia sẻ cho các bạn những cảnh thanh bình đó. Nhưng nếu bạn muốn, sẽ có một ngày, tôi cùng bạn về quê hương, để thấy được cảnh thanh bình tuyệt vời nơi đây. Thật là hạnh phúc! Quê hương tôi…!

Tham khảo
- Môi trường biển là một bộ phận quan trọng trong môi trường sống của chúng ta. Môi trường biển ở nước ta bao gồm: các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo.
- Môi trường nước biển:
+ Chất lượng nước biển ven bờ còn khá tốt với hầu hết các chỉ số đặc trưng đều nằm trong giới hạn cho phép.
+ Đối với môi trường nước xa bờ, chất lượng nước biển tương đối ổn định và ít biến động qua các năm.
- Môi trường bờ biển, bãi biển:
+ Vùng bờ biển nước ta có nhiều dạng địa hình tiêu biểu như: các vịnh cửa sông, các tam giác châu có bãi triều rộng, các bãi cát phẳng, cồn cát, đầm phá,... tạo nên những cảnh quan đẹp và phân hoá đa dạng.
+ Các hệ sinh thái vùng bờ biển cũng rất phong phú, nhất là rừng ngập mặn và hệ sinh thái vùng triều có tính đa dạng sinh học cao.
- Môi trường các đảo, cụm đảo:
+ Môi trường trên các đảo chưa bị tác động mạnh, nhiều đảo còn bảo tồn những khu rừng nguyên sinh.
+ Chất lượng môi trường nước xung quanh đảo khá tốt, phần lớn các chỉ số môi trường nằm trong giới hạn cho phép.
- Môi trường biển đang có xu hướng suy giảm về chất lượng:
+ Nguyên nhân: sự gia tăng các nguồn thải từ đất liền.
+ Biểu hiện: nhiều vùng cửa sông ven biển đã bị ô nhiễm; vẫn còn tình trạng xả thải ra biển chưa qua xử lí; các hệ sinh thái biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học,...
=> Bảo vệ và cải thiện môi trường biển chính là điều kiện cấp thiết đảm bảo cho sự phát triển kinh tế biển của nước ta.

Tham khảo
Em hãy trình bày những hiểu biết của mình về nhân vật lịch sử Quang Trung – Nguyễn Huệ.
=> Quang Trung Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh đổ cả hai tập đoàn thống trị phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, người đã lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc vào cuối thế kỷ thứ 18.
Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong hoạt động quân sự, ông chủ động tập trung lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất và hành động liên tục, bất ngờ, chớp nhoáng, quyết liệt làm cho đối phương không kịp đối phó.
Nguyễn Huệ còn là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh - Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn lên nhận thức được nhiệm vụ dân tộc là thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm
câu 2 : Liệt kê những công lao của ông đối với đất nước?
- Lật đổ các chính quyền phong kiến phản động Nguyễn- Trịnh - Lê.
- Xoá bỏ sự chia cắt đất nước, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
- Đánh tan các cuộc xâm lược của Xiêm, Thanh, bảo vệ được nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.
Em tham khảo:
Nguyễn Huệ (1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, bên cạnh Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông không những là một trong những vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc mà còn là một nhà cai trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc; đồng thời còn là vị vua có tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt

hoang mạc : Cực kì khô hạn, thể hiện ở lượng mưa rất ít và lượng bốc hơi cao. Tính chất khắc nghiệt của khí hậu thể hiện ở sự chênh lệch nhiệt độ hoá ngày và năm lớn.
+vùng núi : ở vùng núi, khí hậu và thực vật thay đổi theo độ cao. Càng lên cao không khí càng loãng dần, cứ lên cao l00 m nhiệt độ không khí lại giảm 0,6°C. Từ trên độ cao khoảng 3000m ở đới ôn hoà và khoảng 5500 m ở đới nóng là nơi có băng tuyết phủ vĩnh viễn.
Sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm không khí từ chân núi lên đỉnh núi đã tạo nên sự phân tầng thực vật theo độ cao, gần giống như khi chúng ta đi từ vùng vĩ độ thấp lên vùng vĩ độ cao.
Khí hậu và thực vật còn thay đổi theo hướng của sườn núi. Những sườn núi lớn gió ẩm thường có mưa nhiều, cây cối tốt tươi hơn so với sườn khuất gió hoặc đón gió lạnh. Ở đới ôn hoà, trên những sườn núi đón ánh nắng, cây cối phát triển lên đến những độ cao lớn hơn phía sườn khuất nắng.
Trên các sườn núi có độ dốc lớn dễ xảy ra lũ quét, lở đất... khi mưa to kéo dài, đe doạ cuộc sống của người dân sống ờ các thung lũng phía dưới. Độ dốc lớn còn gây trở ngại cho việc đi lại và khai thác tài nguyên ở vùng núi.

Kinh tế TBCN phát triển cùng các cuộc phát kiến địa lí trong các thế kỷ XV – XVI đã dẫn đến kỷ nguyên thương mại quốc tế sau đó. Các nước phương Tây đẩy mạnh việc giao lưu quốc tế vs các nước phương Đông. Hai trục giao thương buôn bán lớn ở biển Đông được hình thành đó là trục Bắc – Nam và Đông – Tây. Trong nước, về chính trị thời kỳ này đất nước ta chia cắt thành 2 Đàng. Trong các tk XVI – XVIII, nền kt hàng hóa phát triển, có những chuyển biến to lớn. Chính trong bối cảnh đó, hoạt động trong các đô thị đã ra đời,bên cạnh các đô thị cũ còn xuất hiện nhiều đô thị mới.
Đô thị lớn nhất và cũng là kinh đô của cả nước là Thăng Long – Kẻ Chợ. Đây là một đô thị ra đời từ tk 11. Trong các tk XVI – XVIII mạng lưới chợ ở đâyphát triển mạnh mẽ và là nơi đô hội, tụ tập đông người, có nhiều phố xá nên mật độ các chợ ở đây dày đặc hơn ở nơi khác. Có thể hình dug Thăng Long – Kẻ Chợ theo mô tả của giáo sĩ phương Tây: giáo sĩ Xanh Phanlo “kinh đô của nó, tôi xem có thể lớn bằng Pari và dân số cũng bằng”, giáo sĩ Marini “ Các nhà ở Kẻ Chợ đều 1 tầng…có 62 khu phố mà mỗi khu rộng bằng 1 thành phố nhỏ của nước Ý”.
ở Kẻ Chợ ngoài người Hoa còn có các thương nhân phương Tây đến buôn bán và xin lập thương điếm. Thăng Long – Kẻ Chợ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước, vì vậy TL vẫn chịu sự rang buộc của phần đô, còn phần thị ko phát triển bằng vì nhà nước nắm độc quyền ngoại thương.
Bên cạnh đó còn có Phố Hiến (Hưng Yên). Đây là 1 đô thị mới phát triển trong thời kì này. Tên gọi Phố Hiến thể hiện rõ nét yếu tố đô chi phối yếu tố thị. Đây là thủ phủ trấn Sơn Nam, Phố Hiến nằm ở phía tả s.Hồng, nơi đây có lỵ sở của Tuy Hiến sát sứ ty(cơ quan chính trị của nhà nước). Về sau vs sự phát triển của mình phố Hiến dần dần mag 1 diện mạo của 1 đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao goomd 1 bến cảng sông, 1 tập hợp chợ, khu phường phố, và 2 thương điếm Hà La, Anh. Phố Hiến từ nơi tụ cư, thị trấn phát triển thành 1 đô thị lớn vào tk 17 đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu các hoạt động buôn bán thông qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương do lợi thế là 1 bến sông, đầu mối của các tuyến gt vùng. Thời kì phồn thịnh nhất của phố Hiến là vào khoàng tk 17. Sau đó là quá trình suy thoái, diễn ra trong gần 2 tk để cuối cùng trở thành tỉnh lỵ Hưng Yên. Do dòng sông bị bồi lấp, cạn dần nên tàu thuyền vào khó khăn, mặt khác lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc bãi bỏ lệnh hải cấm, Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xk vàng bạc, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn. Thế kỷ XIX khi kinh đô chuyển vào Huế , phố Hiến lụi tàn dần.
Thanh Hà: nằm ở tả ngạ sông Hương do người TQ thành lập vào năm 1636 khi được phép của chúa Ng. Thanh Hà là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh khách phố” , vs hoạt động buôn bán sầm uất. Tuy nhiên do cồn nổi ở s.Hương tàu thuyền không cập bến được . Sau đó, Thanh Hà cũng lụi tàn dần.
Hội An; là thành phố cảng lớn nhất Đàng Trong, từ rất sớm Hội An đã là nơi đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc . Cảng thị Hội An là nơi tập trung hiều nhất hàng hóa ngoại quốc, các cửa hàng này hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Công ty Đông Ấn Anh nhận xét: “khu phố faifo này có 1 con đường nằm sát vs sông. Hai bên đường có khoảng 100 ngôi nhà xd san sát nhau. Boro viết “thành phố lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nhận nói nó có hai thị trấn, 1 của người TQ và 1 của người NB”. Cuối thế kỷ 18 vùng biển của Đại cạn dần, thuyền buôn ko vào được, Hội An tàn lụi dần.+
Bến Nghé: dưới sự cai quản của các chúa Ng năm 1698 chính thức được thahf lập. Bến Nghé trở thành nơi thu hút sự buôn bán rất lớn của khu vực phía Nam.
Tham khảo:
Hội An ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XVI, phát đạt trong thế kỷ XVII - XVIII, suy giảm dần từ thế kỷ XIX để rồi chỉ còn là một đô thị vang bóng một thời. Đứng về tuổi thọ, Hội An cũng chưa phải dài lâu nhất. Thương cảng Vân Đồn tồn tại suốt thời Lý, Trần, Lê trong khoảng 5 thế kỷ (XI - XV) Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh - Hà Nội là kinh thành và đô thị mang chiều dài lịch sử gần 10 thế kỷ.
Về quy mô của một đô thị, trong thời thịnh vượng của nó, Hội An cũng chưa phải to lớn nhất. Về mặt này, trong thế kỷ XVII - XVIII, Hội An càng phải đứng sau Thăng Long - Kẻ Chợ, Phú Xuân - Huế.
Tuy nhiên, về những phương diện khác, Hội An lại có vị trí, vai trò và mang những đặc điểm riêng của nó, tạo nên dáng vẻ và những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo của Hội An. Và điều đặc biệt quan trọng là cho đến nay, đô thị cổ Hội An còn để lại một tổng thể di tích phong phú, đa dạng và tương đối nguyên vẹn của các phố xá, bến cảng, các kiến trúc dân dụng và tôn giáo, tín ngưỡng dân gian. Trong khi đó, trải qua các biến thiên lịch sử và những điều kiện khắc nghiệt của nhiên nhiên, hầu hết các đô thị cổ khác đều bị hủy hoại hoặc cải tạo hoàn toàn, chỉ để lại trên mặt đất một ít di tích rời rạc, phần lớn là các thành lũy và cung điện, đền miếu, lăng mộ. Di tích đô thị cổ Hội An còn được bảo tồn đến nay là trường hợp duy nhất của Việt Nam và cũng là trường hợp hiếm có trên thế giới.
Chính vì những giá trị đó, năm 1985 Bộ Văn hóa thay mặt Nhà nước Việt Nam đã ra quyết định công nhận và khoanh vùng bảo vệ di tích phố cổ Hội An. Cùng năm đó, cuộc hội thảo khoa học lần thứ nhất về Hội An đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức. Với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước, cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc gia này đã làm sáng tỏ được một số vấn đề cho phép khẳng định quyết định đúng đắn của Chính phủ Việt Nam và đặt cơ sở khoa học bước đầu xây dựng một đề án bảo tồn khu di tích.
Tuy vậy, công việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu về Hội An còn cần phải tiếp tục để có thể đánh giá một cách sâu sắc hơn, chính xác hơn đặc điểm và giá trị của di tích đô thị cổ Hội An và đưa ra một đề án quy hoạch và bảo tồn, phát huy tác dụng một cách khoa học nhất và có hiệu quả nhất. Cuộc hội thảo quốc tế này của chúng ta nhằm mục tiêu đó.
2. Sau khi Ủy ban quốc gia Hội thảo quốc tế về Hội An được thành lập (4/1989), chúng tôi đã thực hiện một chương trình điều tra, khảo sát và nghiên cứu về Hội An nhằm chuẩn bị cho cuộc hội thảo quốc tế này, các đoàn khảo sát về địa lý – địa đạo, khảo cổ học, lịch sử, ngôn ngữ học, kiến trúc, nghệ thuật, bảo tồn học… đã lần lượt về Hội An triển khai các chương trình khảo sát chuyên ngành. Phạm vi điều tra, khảo sát không chỉ giới hạn trong khu phố cổ Hội An (Nội thị của Hội An ngày nay), mà được mở rộng cả về không gian và thời gian.
Về không gian, mở rộng ra cả vùng hạ lưu sông Thu Bồn trong phạm vi hoạt động của thương cảng Hội An xưa, từ dinh trấn Quảng Nam (Thanh Chiêm) cho đến Cù Lao Chàm, và trong chừng mực nào đó ngược về phía tây cho đến Trà Kiệu - Mỹ Sơn của Champa xưa.
Về thời gian, từ những di tích Hội An hiện còn, chúng tôi ngược về quá khứ xa xưa thời tiền sử, sơ sử, thời văn hóa Chàm - tạm gọi là thời tiền Hội An và chủ yếu đi sâu vào quá trình hình thành, phát triển và suy giảm của thương cảng Hội An.
Kết quả trước hết của các đợt điều tra khảo sát điền dã đó là đã thu thập thêm được nhiều tư liệu mới, làm giàu thêm cơ sở tư liệu về Hội An. Đó là những hiện vật khảo cổ học gồm đồ đá, đồ gốm sứ, tiền đồng cổ từ văn hóa Sa Huỳnh muộn cho đến những thời kỳ lịch sử gần đây, những bản dập văn bia, những gia phả, tộc phả, những bản vẽ kiến trúc cổ tồn tại cho đến nay, những hồ sơ tư liệu về các nghề thủ công cổ truyền, về tiếng nói địa phương, về địa danh, về các phong tục tập quán và lễ hội văn hóa dân gian. Sưu tập gốm sứ ở Hội An rất phong phú gồm gốm Sa Huỳnh - Champa, gốm sứ Đại Việt - Đại Nam của các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn, gốm sứ Trung Quốc qua nhiều triều đại và có thể cả gốm sứ nước khác, đang chờ đợi sự nghiên cứu và giám định của các chuyên gia. Các bản dập văn bia gồm bia chùa, đình, miếu, mộ, nhà thờ tộc, hội quán, cầu lên đến gần 100. Các di tích kiến trúc cổ còn được lưu giữ, theo điều tra và thống kê sơ bộ, cũng lên đến 226 đơn vị với nhiều loại hình khác nhau và đã lập được 154 hồ sơ bản vẽ. Do hạn chế về thời gian và nhất là do hạn chế về kinh phí, chúng tôi chưc hoàn tất được chương trình điều tra khảo sát về mọi mặt, đặc biệt là chưa tiến hành được những khai quật khảo cổ học trên diện lớn ở nhiều địa điểm cần thiết.
Trên cơ sở tập hợp những tư liệu mới đó kết hợp với những kết quả nghiên cứu trước đây, tháng 10/1989, chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo liên ngành để chuẩn bị các báo cáo khoa học cho cuộc hội thảo quốc tế này. 26 báo cáo khoa học thuộc nhiều ngành chuyên môn khác nhau đã được hoàn thành và sẽ được trình bày trong cuộc hội thảo của chúng ta, với sự tham gia của các nhà khoa học Việt Nam ở Hà Nội, Quảng Nam - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Huế.
Chúng tôi biết rằng tư liệu liên quan đến Hội An còn được lưu giữ ở nhiều nước trước đây vốn có quan hệ buôn bán với thương cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc ở phương Đông, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, Rôma ở phương Tây. Một phần nguồn tư liệu này đã được khai thác và công bố trong các công trình nghiên cứu của N. Peri, W.J.M. Buch, Chen Ching Ho, P. Manguin, O gura Sadao và nhiều bài đăng trên Bulletin des Amis du vieux Hue, Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême - Orient. Nguồn tư liệu này đang được tiếp tục khai thác nguồn tư liệu cho Hội An và rộng ra nữa cho cả lịch sử Việt Nam.
38 báo cáo khoa học (26 của các nhà khoa học Việt Nam và 12 của các nhà khoa học nước ngoài) trình bày trong cuộc hội thảo quốc tế này, bao quát nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau và đề cập đến nhiều vấn đề của Hội An trong lịch sử và hiện trạng. Các báo cáo cũng gợi mở ra nhiều vấn đề tranh luận rất hứng thú và đặt ra những giả thuyết, những hướng tìm tòi mới có ý nghĩa và triển vọng.
Sau đây, dựa trên các báo cáo khoa học gửi đến hội thảo, tôi xin phép được nêu lên và lưu ý các bạn đồng nghiệp trong và ngoài nước một số vấn đề nhằm định hướng cho cuộc hội thảo khoa học trên tinh thần rất cởi mở, tự do và thẳng thắn của chúng ta.
3. Nói đến thương cảng Hội An, các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ dựa vào những phố cổ hiện còn và trên địa hình sông - biển, các bãi bồi - ao đầm hiện tại. Nhưng những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XIX và nhiều tư liệu địa lý học lịch sử cho thấy chỉ trong vòng ba, bốn thế kỷ trở lại đây, địa hình vùng hạ lưu sông Thu Bồn đã có nhiều thay đổi. Ngày nay, những biến đổi của vùng cửa sông và các doi cát ven sông còn tiếp diễn và có thể dễ dàng quan sát trong từng thời gian khoảng chục năm. Vì vậy việc nghiên cứu, khảo sát về mặt địa lý, khí tượng, thủy văn để xác định quá trình hình thành và biến đổi địa hình của vùng hạ lưu sông Thu Bồn, nhất là trong khoảng 2000 năm trở lại đây, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử Hội An cũng như lý giải cấu trúc, sự ra đời và sa sút của thương cảng, mối quan hệ giữa Hội An với Đà Nẵng và con đường hàng hải quốc tế đương thời.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát của một số nhà chuyên môn cho biết vào khoảng đầu công nguyên, lúc biển tiến đạt mức cực đại thì vùng cửa sông Thu Bồn là một vùng biển cửa sông loe như hình phễu. Dấu vết rõ rệt của vùng biển cổ đó là một vùng đầm lầy Trà Quế (Cẩm Hà). Sau đó, biển rút dần và các địa hình có nguồn gốc khác nhau được tạo thành. Những địa hình cao con người có thể sinh sống được lúc bất giờ là ven bờ vùng biển, là các thềm tích tụ biển rải rác và thành một dải dọc theo chân bờ xói lở. Thềm tích tụ biển tương đối cổ và cao là doi cát từ Hội An đến Cồn Tàu. Hai bên bờ Bắc và Nam cửa Thu Bồn, hai dải tích tụ cát nhô lên khỏi mặt nước, biến vùng nước phía trong thành dầm phá. Các dạng đầm phá bị lấp dần, để lại dưới dạng dòng sông Cổ Cò hay các bầu ở Trung Phường. Phù sa và sóng biển ở cửa sông tạo thành những cồn cát, tách sông Thu Bồn đổ ra biển bằng hai cửa mà tư liệu lịch sử đã có thời gọi là Cửa Đại và cửa Tiểu. Quá trình di chuyển dọc bờ của bùn cát làm chi cửa phía bắc bị lấp dần - có thể vào khoảng thế kỷ XVIII - và ép dòng nước sông Thu Bồn chạy về phía Nam. Cũng từ đó, quá trình tích tụ mạnh mẽ bồi lấp dần các đầm phá và làm cho các tuyến sông bị thay đổi và bị lấp dần, gây khó khăn cho sự ra vào và neo đậu các tàu thuyền lớn.
Trên những bản đồ cổ thế kỷ XVII - XVIII, Hội An hay Faifo nằm trên bờ bắc sông Thu Bồn (hay sông Hội An) thông với biển cả bằng cửa Đại Chiêm (lúc đó còn ở phía Bắc Cửa Đại ngày nay) và một dòng sông nối với cửa Hàn của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng như một hòn đảo. Dấu vết của dòng sông nối Hội An với cửa Hàn có thể xác định là sông Cổ Cò - Để Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này, gần đây đã tìm thấy những lô tàu, mỏ neo chôn vùi trong lòng đất và những địa danh có ý nghĩa như Vụng Tàu, Cồn Tàu, Bến Tàu…
Phải chăng trên cơ sở những tư liệu đó, chúng ta có thể phác họa lại địa hình và sông nước Hội An trong thời hình thành và phồn vinh của thương cảng nổi tiếng này. Những biến đổi của địa hình sau đó cũng là một trong những nhân tố trọng yếu làm sa sút vai trò và hoạt động của thương cảng Hội An. Cũng trên cơ sở địa hình và những biến đổi của nó trong lịch sử, chúng ta có thể nghiên cứu theo quan điểm lịch đại và đồng đại đặc điểm môi trường và sinh thái vùng sông - biển, cồn cát - ao đầm của Hội An và hạ lưu sông Thu Bồn.
4. Trong hội thảo quốc tế này, một số báo cáo đề cập đến thời kỳ tiền Hội An, thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Champa. Đó là một hướng nghiên cứu đã được nêu lên trong hội thảo năm 1985 và được tiếp tục trong hội thảo này với một số tư liệu và nhận thức mới.
Những cuộc thám sát khảo cổ học ở Hậu Xá, Thanh Chiếm, An Bang (xã Cẩm Hà) để phát hiện được những di tích mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh muộn. Trong những di tích này đã tìm thấy đồ gốm, kh...
Hiểu biết về môi trường
Môi trường là tổng thể các yếu tố tự nhiên và nhân tạo xung quanh con người và các sinh vật khác, có ảnh hưởng đến sự phát triển và tồn tại của chúng. Môi trường không chỉ bao gồm không gian, khí hậu, nước, đất mà còn bao gồm cả các yếu tố sinh học và văn hóa trong cuộc sống của con người.
1. Các thành phần của môi trường
Môi trường bao gồm ba thành phần chính:
2. Tầm quan trọng của môi trường
Môi trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống trên Trái Đất, không chỉ đối với con người mà còn đối với tất cả các loài sinh vật khác. Môi trường cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên, không khí, nước sạch, thực phẩm và các yếu tố cần thiết cho sự sống. Nếu môi trường bị suy thoái, ảnh hưởng đến sự cân bằng sinh thái, sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và sự tồn tại của chúng ta.
3. Các vấn đề môi trường hiện nay
Hiện nay, môi trường đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng do con người gây ra, bao gồm:
4. Giải pháp bảo vệ môi trường
Để bảo vệ môi trường và duy trì sự sống trên Trái Đất, mỗi người cần có ý thức và hành động cụ thể:
5. Kết luận
Môi trường là yếu tố sống còn đối với con người và các sinh vật khác. Việc bảo vệ và duy trì môi trường sạch là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta. Mỗi hành động nhỏ, dù là tiết kiệm điện, giảm rác thải hay bảo vệ cây xanh, đều đóng góp vào việc bảo vệ hành tinh và tạo dựng một tương lai bền vững. Hãy cùng nhau chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta.
Dưới đây là một bài trình bày ngắn gọn và đầy đủ về môi trường, phù hợp với yêu cầu bài tập của bạn:
Trình bày những hiểu biết của em về môi trường
Môi trường là toàn bộ những gì bao quanh chúng ta, bao gồm: không khí, nước, đất, cây cối, động vật, con người và các yếu tố tự nhiên khác. Môi trường không chỉ cung cấp cho con người các điều kiện để sống như oxy để thở, nước để uống, đất để trồng trọt... mà còn là nơi diễn ra mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt.
Tuy nhiên, hiện nay môi trường đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do các hoạt động của con người như: xả rác bừa bãi, chặt phá rừng, sử dụng hóa chất độc hại, khí thải công nghiệp,... gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của tất cả chúng ta. Mỗi người cần có ý thức giữ gìn môi trường sống như: không xả rác, trồng nhiều cây xanh, tiết kiệm nước và điện, phân loại rác đúng cách, nói không với túi nilon dùng một lần,…
Môi trường xanh - sạch - đẹp sẽ giúp cuộc sống của chúng ta trở nên tốt hơn, khỏe mạnh hơn và hạnh phúc hơn. Vì thế, em luôn cố gắng bảo vệ môi trường từ những việc nhỏ nhất hằng ngày.
Nếu bạn cần bài dài hơn hoặc theo kiểu thuyết trình, văn mẫu, hoặc viết theo dàn ý, mình có thể giúp bạn mở rộng thêm nhé!