K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản sau:         Có một miền quê (Vũ Tuấn)     Có một miền mọc trắng cỏ LauLà quê tôi, đi xa rồi luôn nhớKhắc khoải trong tim, bồi hồi nhịp thởMong trở về nghe khúc hát mẹ ru. Có một miền, Lau mọc trắng vần thơLà quê hương, cha ngày đêm mong đợiÁo bạc sờn trong nắng chiều vời vợiMồ hôi cha mặn cả những cánh đồng. Có một miền cho ngô lúa...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

         Có một miền quê

(Vũ Tuấn)     

Có một miền mọc trắng cỏ Lau

Là quê tôi, đi xa rồi luôn nhớ

Khắc khoải trong tim, bồi hồi nhịp thở

Mong trở về nghe khúc hát mẹ ru.

 

Có một miền, Lau mọc trắng vần thơ

Là quê hương, cha ngày đêm mong đợi

Áo bạc sờn trong nắng chiều vời vợi

Mồ hôi cha mặn cả những cánh đồng.

 

Có một miền cho ngô lúa đơm bông

Hạt gạo thảo thơm, vai gầy của mẹ

Như cánh cò thân thương nhỏ bé

Vất vả tảo tần, trong nắng, trong mưa…

 

Có một miền mà khi tôi đi xa

Luôn muốn về, những trưa hè yên ả

Bát chè xanh, thắm tình quê vất vả

Mẹ gánh cuộc đời, xộc xệch thời gian...

 

Có một miền tôi chẳng thể nào quên

Quê nội thân thương như bàn tay chai sạn

Khóe mắt nồng cay, trong chiều chạng vạng

Ơi quê nhà! Tôi gọi mãi trong tim...

(In trong tập Quê hương trong tôi, Vũ Tuấn, NXB Văn Học, 2021, trang 48)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Chủ đề của bài thơ là gì?

Câu 2 (0,5 điểm). Trong bài thơ, hình ảnh quê hương được tác giả nhắc đến qua những từ ngữ, hình ảnh nào?

Câu 3 (1,0 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp điệp ngữ “Có một miền” được sử dụng trong bài thơ.

Câu 4 (1,0 điểm). Em hiểu như thế nào về hai dòng thơ sau?

Áo bạc sờn trong nắng chiều vời vợi

Mồ hôi cha mặn cả những cánh đồng.

Câu 5 (1,0 điểm). Từ thông điệp của bài thơ, em hãy viết một đoạn văn khoảng 5 – 7 dòng trả lời câu hỏi: Người trẻ cần có trách nhiệm gì với quê hương, đất nước?

1
29 tháng 4

Câu 1 (0,5 điểm).
Chủ đề của bài thơ:
Bài thơ thể hiện tình yêu sâu nặng, nỗi nhớ da diết và niềm tự hào của tác giả đối với quê hương – nơi gắn bó với tuổi thơ, cha mẹ, những ký ức bình dị và thiêng liêng.


Câu 2 (0,5 điểm).
Hình ảnh quê hương trong bài thơ được gợi lên qua những từ ngữ, hình ảnh:

  • Cỏ lau trắng, khúc hát mẹ ru, áo bạc sờn, mồ hôi cha, hạt gạo thảo thơm, vai gầy của mẹ, cánh cò, bát chè xanh, bàn tay chai sạn, khóe mắt nồng cay,…
    → Những hình ảnh giản dị, gần gũi mà đậm chất quê hương.

Câu 3 (1,0 điểm).
Tác dụng của biện pháp điệp ngữ “Có một miền”:

  • Gợi mở không gian thơ đầy cảm xúc, nhấn mạnh vẻ đẹp và sự thiêng liêng của quê hương trong tâm trí người con xa xứ.
  • Tạo âm điệu trầm lắng, da diết, thể hiện nỗi nhớ khắc khoải.
  • Làm nổi bật các khía cạnh khác nhau của quê hương: thiên nhiên, con người, ký ức, tình cảm gia đình.

Câu 4 (1,0 điểm).
Hiểu về hai dòng thơ:

Áo bạc sờn trong nắng chiều vời vợi
Mồ hôi cha mặn cả những cánh đồng.

  • Hai câu thơ khắc họa hình ảnh người cha cần mẫn, vất vả lao động trên ruộng đồng.
  • “Áo bạc sờn” và “mồ hôi cha mặn” là biểu tượng của sự hi sinh, tảo tần vì gia đình, gợi lòng biết ơn sâu sắc của người con dành cho cha và những người nông dân quê hương.
  • Đồng thời, thể hiện sự gắn bó giữa con người và mảnh đất quê hương qua lao động.

Câu 5 (1,0 điểm).
Đoạn văn:

Người trẻ hôm nay cần có trách nhiệm giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của quê hương, đất nước. Đó là tình yêu, sự biết ơn đối với nguồn cội, những người đã vất vả dựng xây quê hương. Người trẻ cần học tập tốt, sống có lý tưởng, đóng góp bằng hành động thiết thực như bảo vệ môi trường, giữ gìn truyền thống văn hóa và tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng. Chỉ khi hiểu rõ quê hương mình, chúng ta mới có thể góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh và nhân văn hơn.

6 tháng 10 2024

viết bài văn ghi lại cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ thơ miền trung

8 tháng 7 2023

Các tác phẩm viết về quê hương miền biển:

+ Đoàn thuyền đánh cá (tác giả: Huy Cận, trong Ngữ Văn 9)

+ Cô Tô (tác giả: Nguyễn Tuân, trong Kết Nối Tri Thức 6)

+ Quê Hương (tác giả: Tế Hanh, trong Ngữ văn 8)

8 tháng 7 2023

Bài,thơ,quê,hương,của,Tế,Hanh.

tác giả Vũ từ trang Bài thơ quê ngoại Quê ngoại có bà ngoại tôi làng nằm bên bờ sông cổ con sông cũng lắm ưu phiền ba năm ba lần đê vỡ Quê ngoại có nghề nấu kẹo kẹo mầm thơm suốt mùa đông bà tôi đã từng gồng gánh kẹo quê đi bán trăm miền Bà ơi, áo nâu sờn bạc bà ơi, cái nón gãy vành... bên sông mẹ con đứng ngóng đò nan sóng vỗ đăm đăm... Thôi đã khuất rồi, quê ngoại bà...
Đọc tiếp

tác giả Vũ từ trang Bài thơ quê ngoại Quê ngoại có bà ngoại tôi làng nằm bên bờ sông cổ con sông cũng lắm ưu phiền ba năm ba lần đê vỡ Quê ngoại có nghề nấu kẹo kẹo mầm thơm suốt mùa đông bà tôi đã từng gồng gánh kẹo quê đi bán trăm miền Bà ơi, áo nâu sờn bạc bà ơi, cái nón gãy vành... bên sông mẹ con đứng ngóng đò nan sóng vỗ đăm đăm... Thôi đã khuất rồi, quê ngoại bà tôi một nắm mộ gầy quê ngoại thêm xa từ đấy mẹ tôi nước mắt vào trong Lạy trời, đường đất đừng trơn lạy trời, nắng thôi trút lửa cho mẹ về ngóng bên sông cho con bớt buồn quê ngoại. Câu 1 em hãy nêu tác dụng của dấu "..." trong câu thơ + bà ơi cái nói gãi vành... +đò nan sóng vỗ đăm đăm ... Câu2 em có nhận xét gì về tình cảm của nhân vật tôi trong bài thơ Câu3 Nêu thông điệp của bài thơ Câu 4 em hãy nêu nội dung và nghệ thuật Câu 5 em hãy nêu hình ảnh Câu 6tác giả đã ca ngợi bài thơ như thế nào Câu 7 em rút ra bài học gì Help me

1

Bạn có thể đăng lại và tách nhỏ câu hỏi ra được không ạ? Vì hiện tại nhìn rất rối ạ

12 tháng 9 2023

Nhỏ hả mình không biết làm

3 tháng 1 2022

Tham khảo

Đối với mỗi người con đi xa nhà xa quê thì cảm xúc và kí ức của họ luôn hướng về một nơi thân thương được gọi là quê hương. Có lẽ mỗi người chúng ta ai cũng có quê hương của chính mình, quê hương là một nơi nào đó mà nơi đó có thể ta được sinh ra hay lớn lên, là nơi cho ta nhiều kỉ niệm, nơi mang đến cho ta cảm giác ấm áp và thân thuộc, tin tưởng đến nỗi cho dù cuộc sống có chông chênh hay mệt mỏi ta vẫn luôn mong được trở về nơi đó để ta có một điểm tựa cho chính bản thân mình. Nhắc đến quê hương là nhắc đến tuổi thơ, nhắc đến những kỉ niệm tươi đẹp, nhắc đến một thời hồn nhiên và ngây thơ. Quê hương nơi mà ta luôn thuộc về và cũng là nơi luôn sẳn sàng giang tay chào đón ta. Quê hương, nơi đó có ánh nắng của buổi ban mai với bầu không khí trong lành và mát dịu, có những đồng ruộng thẳng cánh cò bay, đâu đó là những chú trâu giữa những cánh đồng đang cầy cáy cùng với người nông dân. Trên những con đê nho nhỏ và hẹp ấy là những cậu nhóc cùng nhau thả diều hay những lần chơi đuổi bắt mà vô tình trượt chân xuống ruộng lúa toàn bùn đất lâu lâu lại thấy những cậu nhóc chăn trâu ngoài đồng rồi vừa chăn trâu vừa thả diều, có những hôm là buổi chiều tà mọi người cùng nhau dắt trâu về chuồng. Quê hương là nơi mà tôi với những bạn bè cùng trang lứa mặc kệ gái trai cùng nhau trèo lên những cây ăn trái khi đến mùa, hái cho nhau những trái ngon nhất, là lúc tôi trên cây hái còn cậu thì ở bên dưới lấy áo hứng những trái ngọt lành đó. Quê hương là nơi đưa chân những người con xa nhà lên thành thị để làm ăn để học tập mà chẳng biết đến khi nào mới về cũng chẳng biết lên thành thị sẽ như thế nào, là nơi mà mỗi người con, người xa quê đều nhớ đến và mong muốn tìm về. Đôi lúc sống giữa cuộc sống đầy vất vả và tấp nập ta lại chợt nghĩ đến những sự yên bình tại quê hương ấy cái sự đầm ấm và hạnh phúc khi mà cả làng cùng nhau sum họp và vui vầy cho một học sinh nghe tin đậu đại học là niềm hãnh diện của cả làng chứ không phải của riêng gia đình nào đó, là nơi có cây đa hàng nước, nơi thôn quê dân dã nhưng lại mang đậm tình yêu thương vô bờ, là nơi mà đồng tiền tuy khan hiếm nhưng tình cảm thì luôn chất chứa. Quê hương là những ngày cuối năm ông bà cha mẹ đều mong ngóng con cháu chở về để gặp mặt để hội họp sau những năm xa cách mà chẳng biết con cháu sống ra sao có khổ cực hay không. Là nơi mà tất cả sự yêu thương đều được chia sẻ, tất cả lỗi lầm đều được tha thứ, là nơi đưa tâm hồn ta về với sự bình yên, về với yêu thương. Quê tôi chẳng giàu có cũng chẳng nhộn nhịp tấp nập, quê tôi là một nơi bình dị, là vùng nông thôn suốt những năm tháng đều phải chịu nắng mưa dãi dầu, cuộc sống tuy khó khăn nhưng tất cả rất yên bình và nhẹ nhàng không có sự cãi vả hay tranh dành, đó là nơi tôi được sinh ra và lớn lên là nơi in đậm kí ức tuổi thơ của tôi, in đậm dấu ấn về ông bà, về những người thân yêu mà tôi luôn mong mỏi tìm về.

18 tháng 9 2021

Tác giả kêu gọi nhân loại chống lại vũ trang bằng cách: hãy "tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công bằng".

Tham khảo:

Đó là lời kêu gọi của ông chống lại chiến tranh hạt nhân chống lại cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Kêu gọi mọi người: “Hãy tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình công bằng”. Ông đã có một đề nghị táo bạo đó là “mở ra một nhà băng lưu chị nhớ có thể tồn tại được sau tai họa hạt nhân” để nhân loại tương lai biết rằng sự sống đã từng tồn tại và biết đến thủ phạm đã gây ra sự lo sợ đau khổ cho con người, biết những tên mắt điếc tai ngơ trước những lời khẩn cầu hòa bình kêu gọi để được sống hạnh phúc.

15 tháng 5 2021

Em tham khảo nhé !

Trong bài thơ Quê hương, nhà thơ Tế Hanh đã dành trọn tình cảm tha thiết cho quê hương mình. Thật vậy, đầu tiên, nhà thơ của quê hương đã mở đầu bài thơ bằng khung cảnh ra khơi đánh cá người dân làng chài. Tình yêu quê hương của nhà thơ đã được gửi gắm vào những vần thơ miêu tả con người và cánh buồm trong bài. Những người dân khỏe khoắn yêu lao động và con thuyền hăng hái ra khơi đã chở theo biết bao ước mơ của người dân làng chài. Nhà thơ luôn canh cánh những tình yêu quê hương đó qua những thứ thuộc về quê hương. Cánh buồm giương to được tác giả so sánh với mảnh hồn làng chứa đựng tất cả những gì thiêng liêng nhất của quê hương nhà thơ. Dù không bộc lộ tình yêu trực tiếp nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được tình cảm tha thiết, mãnh liệt. Những câu thơ tiếp theo miêu tả cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập. Khung cảnh bình dị, no ấm của người dân được tác giả miêu tả hiện lên. Những câu thơ chính là bài ca về lao động, bài ca về khát vọng no ấm của những người dân làng chài. Chao ôi, tác giả là người yêu quê hương tha thiết nên luôn cảm nhận được những sự vất vả của người dân làng chài sau mỗi buổi đánh cá về! Và những câu thơ cuối đã thể hiện được tình yêu quê hương luôn thường trực trong tâm trí của nhà thơ. Tình yêu quê hương của nhà thơ Tế Hanh là một thứ tình cảm luôn thường trực của người con xa quê luôn khắc ghi và nhớ về tất cả những thứ bình dị thân thương thuộc về quê hương của mình. 

 
15 tháng 5 2021

TK#

Tế Hanh là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam với những vẫn thơ giàu hình ảnh, ngôn ngữ tự nhiên, giản dị và luôn chất chứa tình yêu quê hương tha thiết. Bài thơ "Quê hương" được sáng tác năm 1939 khi nhà thơ còn đang học ở Huế là một sáng tác tiêu biểu của ông. Đọc bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.

Trước hết, tình yêu quê hương của tác giả được thể hiện gián tiếp qua cách nhà thơ giới thiệu về quê hương của mình trong hai câu thơ mở đầu bài thơ.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông

Với hai câu thơ tám chữ ngắn gọn nhưng có thể thấy tác giả đã giới thiệu một cách toàn diện, khái quát và đầy đủ về quê hương của chính mình. "Làng tôi" là cách gọi đầy thiết tha, trìu mến, chan chứa bao tình cảm của nhà thơ với quê hương của mình. Để rồi, từ đó, nhà thơ vẽ ra những đặc điểm, vị trí của quê hương mình. Cụm từ "vốn làm nghề chài lưới" đã cho thấy quê hương của nhà thơ là một làng nghề đánh cá truyền thống từ lâu đời. Cùng với đó, vị trí của làng chính là ở gần biển, chỉ "cách biển nửa ngày sông", có thể dễ dàng nhận thấy đây chính là cách tính không gian quen thuộc của người dân miền biển - lấy thời gian để đo không gian. Như vậy có thể thấy nhà thơ đã giới thiệu một cách ngắn gọn, tự nhiên, giản dị về quê hương của mình. Ẩn sau lời giới thiệu ấy chính là tình cảm thiết tha, đằm thắm và nỗi niềm yêu thương, tự hào về quê hương mình của nhà thơ Tế Hanh.

 

Không dừng lại ở đó, tình yêu quê hương của tác giả trong bài thơ còn được thể hiện qua nỗi nhớ, cách miêu tả của tác giả về khung cảnh sinh hoạt, lao động của những người dân làng chài nơi mảnh đất quê hương. Khung cảnh đầu tiên hiện lên trong nỗi niềm của tác giả đó chính là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào mỗi buổi sáng.

Khi trời xanh, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Hai câu thơ đã mở ra khoảng không gian và thời gian để những chiếc thuyền của người dân làng chài ra khơi đánh cá. Đó là một buổi sớm mai với ánh mặt trời ấm áp cùng những ánh nắng hồng tỏa sáng muôn nơi, khoảng thời gian ấy đã gợi ra biết bao niềm tin, hi vọng cho người dân nơi đây. Và trong khoảng thời gian ấy, trong không gian của "trời xanh', của "gió nhẹ" những người dân nơi đây đã giong buồm ra khơi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau ra khơi được tác giả khắc họa thật đẹp, thật dũng mãnh, khỏe khoắn và tràn đầy tự tin qua hình ảnh so sánh độc đáo "hăng như con tuấn mã" cùng việc sử dụng hàng loạt động từ mạnh như "phăng", "vượt". Và không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh ra khơi của những người dân làng chài còn được thể hiện ở hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ tiếp theo.

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Hình ảnh so sánh độc đáo cùng phép tu từ ẩn dụ làm hiện lên hình ảnh của cánh buồm trắng, mang linh hồn, sự sống, sức mạnh của cả xóm làng. Có thể thấy đây là một hình ảnh thơ lãng mạn, qua đó thể hiện sự tự hào, niềm tin và tình yêu quê hương của tác giả.

Trong nỗi nhớ, tình yêu quê hương, nhà thơ Tế Hanh còn khéo léo miêu tả lại khung cảnh những đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày dài vượt khơi xa.

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng"

Dưới ngòi bút của Tế Hanh, khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trên bến quê thật ồn ào, tấp nập, tràn đầy tiếng cười nói vui vẻ sau một chuyến ra khơi bội thu với những chiếc ghe đầy cá, với những con cá tươi ngon. Để rồi, những người dân chài lưới nơi đây lên tiếng thầm cảm ơn thiên nhiên, cảm ơn người mẹ biển cả đã dịu hiền, chở che, bảo vệ những đứa con để họ có thể trở về với "cá đầy ghe". Đồng thời, trong niềm vui ấy, tác giả đã khắc họa hình ảnh những người dân làng chài với vẻ đẹp thật khỏe khoắn.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Hình ảnh những người dân làng chài hiện lên với làn da đen bởi rám nắng cùng thân hình với những bắp thịt cuồn cuộn đã tạo nên phong thái khỏe khoắn, mạnh mẽ của họ. Thêm vào đó, cụm từ "vị xa xăm" còn gợi lên vị mặn của biển cả, của đại dương bao la, mênh mông, dường như, tất cả chúng đã thấm sâu vào thân hình của những con người nơi đây. Cùng với hình ảnh những người dân làng chài, bằng ngòi bút tài hoa tinh tế và tình yêu của mình, nhà thơ còn khắc họa hình ảnh con thuyền nghỉ ngơi sau ngày làm việc mệt nhọc.

 

Chiếc thuyền im, bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Với nghệ thuật nhân hóa độc đáo cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác dường như đã làm hiện ra trước mắt người đọc hình ảnh con thuyền như một sinh thể có tâm hồn, như một sự sống lao động của những con người nơi đây, nó cũng có những cảm nhận của riêng mình sau mỗi hành trình ra khơi. Và để rồi, qua đó giúp chúng ta cảm nhận thấy tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ. Có lẽ phải thật sự giàu lòng yêu quê hương, luôn nhớ tới quê hương thì nhà thơ mới có những cảm nhận sâu sắc và độc đáo đến như vậy.

Thêm vào đó, tình yêu quê hương của nhà thơ Tế Hanh còn được bộc lộ trực tiếp qua nỗi nhớ quê hương trong khổ thơ cuối của bài thơ.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

Những ngày tháng rời xa quê hương, trong nỗi lòng của Tế Hanh luôn hiện hữu nỗi nhớ quê da diết, sâu nặng. Nhớ về quê hương, nhà thơ nhớ những nét bình dị, thân thuộc nhất của nơi đây, đó là màu nước xanh của biển cả, là cá bạc, là thuyền vôi và đặc biệt là nhớ "cái mùi nồng mặn" - cái vị mặn mòi của biển cả đã thấm sâu vào trong mỗi người con làng chài. Đặc biệt, điệp từ "nhớ" được lặp lại trong đoạn thơ đã nhấn mạnh rõ nét nỗi nhớ quê hương của nhà thơ. Chắc hẳn, nhà thơ phải yêu quê hương thật nhiều thì mới có một nỗi nhớ quê da diết, cháy bỏng đến vậy.

Với những hình ảnh thơ độc đáo, lãng mạn cùng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, bài thơ "Quê hương" đã giúp người đọc cảm nhận một cách chân thực và rõ nét tình yêu quê hương tha thiết, sâu sắc của nhà thơ Tế Hanh. Tình yêu ấy được thể hiện rõ nét trong những tháng ngày nhà thơ phải sống xa quê hương của mình.

31 tháng 3 2021

Tham khảo:

Trần Quốc Tuấn là một danh tướng đời Trần ở thế kỉ XIII. "Hịch tướng sĩ" là một bài hịch thể hiện sự quyết tâm đánh giặc cùng lòng yêu nước nồng nàn của vị tướng này. Trước hết, khi đọc câu văn, người đọc dẽ dàng nhận thấy những suy tư, trăn trở của Trần Quốc Tuấn. Khi quân Mông - Nguyên sang xâm lược nước ta, ông lo cho dân, lo cho sự an nguy của dân, lo cho đất nước đến nỗi quên ăn, quên ngủ. Hơn thế nữa, biện pháp so sánh "ruột đau như cắt" cùng các động từ mạnh như cắt, căm tức, xả thịt, lột da, nuốt gan,... như lột tả sự căm hờn, phẫn uất của Trần Quốc Tuấn. Ông căm thù giặc đến nỗi khao khát được lột da, được uống máu quân thù. Qua nỗi căm phẫn ấy, người đọc thấy được một tinh thần yêu nước nồng nàn đang sáng lên trong trái tim ông. Thử hỏi xem nếu ông không yêu nước thì cớ gì ông lại phải căm ghét, đay nghiến bè lũ xâm lược? Chính vì vậy mà đến câu văn tiếp theo, ông đã khẳng định một cách chắc nịch "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” Câu văn như làm sáng tỏ lòng yêu nước, thương yêu dân của vị tướng nhà Trần. Ông sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng bị giặc tước đi mạng sống để cứu lấy dân, để giữ yên bề cõi. Phải yêu dân, yêu nước đến vô bờ bến thì Trần Quốc Tuấn mới có thể hi sinh, luôn chất chứa nỗi đau đáu, xót xa đến như vậy! Thật vậy, con cháu Việt Nam ngày nay luôn tưởng nhớ đến công lao của Trần Quốc Tuấn. Dù ông đã hi sinh nhưng ông vẫn sẽ như những vì sao, tỏa sáng khắp bầu trời đêm.

  
31 tháng 3 2021

tham khảo

Năm 1257, quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ nhất và đã bị thất bại đau đớn. Vì vậy, chúng quyết tâm phục thù trở lại xâm lược lần thứ hai. Đoán biết trước được dã tâm đen tối của giặc Nguyên, tháng 9/1284 Trần Quốc Tuấn đã viết bài: Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến đấu của các tướng sĩ. Tác phẩm của Trần Quốc Tuấn không những là một áng thiên cổ hùng văn mà còn bộc lộ sâu sắc tình yêu nước, và tinh thần trách nhiệm của ông trước họa ngoại xâm.

 
Trong bài hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhiều lần trực tiếp bày tỏ những suy nghĩ và cảm xúc cá nhân trước tình hình đất nước hiện tại và thái độ của các tướng sĩ. Ông đã tái hiện lại những sự việc đau đớn của hiện thực đương thời mà bất cứ một người dân yêu nước nào cũng phải xót xa cho quốc thể:

 
“Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ …”

Trần Quốc Tuấn đã trút tất cả lòng căm thù , oán hận, kinh bỉ vào lời văn miêu tả quân thù. Hình ảnh và tội ác của giặc chỉ được nhắc đến qua vài câu văn nhưng có sức ám ảnh ghê gớm. Ông đã thú vật hóa những chân dung của chúng  với bản chất xấu xa, độc ác.

Tác giả liên tiếp sử dụng một loạt hình ảnh cụ thể, có ý nghĩa biểu cảm mạnh mẽ. Quân giặc khác nào loài cú diều dơ bẩn quanh quẩn trong bóng tối, loài dê chó tầm thường, hèn hạ, đáng coi khinh. Chúng giống như loài hổ đói hung dữ, tàn bạo, đầy đe dọa .

Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau đớn xót xa, thấm thía tận tâm can của Trần Quốc Tuấn. Đó là lúc ông khi phải chứng kiến đất nước lâm nguy, quốc thể bị chà đạp, quân vương bị xúc phạm, nhân dân phải lầm than. Lòng căm thù giặc như trào tuôn trên giấy theo những câu văn dồn dập. Nó không chỉ là những tình cảm sục sôi giận dữ ở trong lòng mà đang muốn biến thành những hành động phản kháng cụ thể.

Tấm lòng yêu nước nồng nàn
Tấm lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn được thể hiện rõ nhất ở trong câu “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.

 
 
Đây là lời tâm sự trực tiếp bày tỏ nỗi lòng, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng rất chân thành và tha thiết của người chủ tướng. Mỗi câu chữ vang lên như một lời thề nguyện thiêng liêng, sống chết vì đất nước, thể hiện một quyết tâm sắt đá, một khí phách anh hùng dũng liệt. Hình tượng của người dũng tướng hiện lên thật rõ ràng, gần gũi nêu cao tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.

Tinh thần trách nhiệm được nêu cao
Mặt khác, bài Hịch tướng sĩ còn nêu cao tinh thần trách nhiệm của vị chủ soái trước cảnh Tổ quốc đang lâm nguy bằng những lời phê phán nghiêm khắc thái độ bàng quan, chỉ biết hưởng lạc của các tướng sĩ vô trách nhiệm.

Trần Quốc Tuấn cũng chỉ rõ nếu lự chọn con đường cứu nước thì không chỉ là lời hứa hẹn suông mà cần phải có những hành động cụ thể như thế nào: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên để có được quân đội hùng mạnh khiến cho con người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ. Và phải hướng đến cái đích là chiến thắng oanh liệt vang dội có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó không còn là những lời phân tích bàn bạc nữa mà đã trở thành những lời kêu gọi, khích lệ, cổ vũ, động viên vô cùng mạnh mẽ hướng tới đông đảo quân sĩ nhà Trần.  

Tinh thần trách nhiệm của ông còn thể hiện ở việc ông viết nên cuốn Binh thư yếu lược để cho các tướng sĩ rèn luyện. Đối với ông, yêu nước là phải có bổn phận giữ nước. Phải có hành động thiết thực cứu nước tầm binh pháp các thời để tạo nên bí quyết chống giặc, phá giặc. Trần Quốc Tuấn đã thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của người chỉ huy công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Chính lòng yêu nước mãnh liệt tinh thần trách nhiệm cao độ của ông đã đốt cháy lên ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng trong lòng các tướng sĩ lúc bấy giờ.

Hình tượng Trần Quốc Tuấn trong bài Hịch tướng sĩ này cũng là hình tượng tiêu biểu của lòng yêu nước và căm thù giặc nói chung của toàn thể quân đội nhà Trần, toàn thể quân dân Đại Việt