K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc bài thơ sau và thực hiện yêu cầu:Chiều xuân ở thôn Trừng MạiPhân phất mưa phùn, xâm xẩm mâyMặc manh áo ngắn giục trâu càyNàng dâu sớm đã gieo dưa đóBà lão chiều còn xới đậu đâyMía cạnh giậu tre đang nảy ngọnKhoai trong đám cỏ đã xanh câyĐiền viên nghĩ thật nguồn vui thúDẫu chẳng hành môn đói cũng khuây.Câu 1: Trong sáu câu thơ đầu, thiên nhiên mùa xuân được miêu tả qua các...
Đọc tiếp

Đọc bài thơ sau và thực hiện yêu cầu:
Chiều xuân ở thôn Trừng Mại

Phân phất mưa phùn, xâm xẩm mây

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày

Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó

Bà lão chiều còn xới đậu đây

Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn

Khoai trong đám cỏ đã xanh cây

Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú

Dẫu chẳng hành môn đói cũng khuây.
Câu 1: Trong sáu câu thơ đầu, thiên nhiên mùa xuân được miêu tả qua các hình ảnh, từ ngữ nào? Em có cảm nhận gì về bức tranh thiên nhiên đó?
Câu 2: trong hai câu thwo sau có sử dụng biện pháp tu từ nào? Việc sử dụng biện pháp tu từ đó mang lại hiệu quả nghẹ thuật gì?
"Phân phất mừa phùn, xâm xẩm mây

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày"

Câu 3: Nơi thôn que ấy, cuộc sống tuy vất vả nhưng con người được gắn bó, chan hòa với thiên nhiên. Từ hiểu biết về văn bản trên, hãy nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc sống chan hòa với tự nhiên. (Trả lời 5-7 câu văn liên mạch)

0
22 tháng 2 2021

Tham khảo:

Thơ :

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chim mà vang trời”

Phân tích:

Dòng sông có màu xanh gợi nhắc một hình ảnh của những khúc sông uốn lượn quanh co của dải đất miền Trung. Trên gam màu xanh lơ nổi bật lên hình ảnh một bông hoa tím biếc, không có màu vàng của hoa mai hay là màu đỏ của hoa đào mà chỉ có một bông hoa màu tím hiện lên trước mắt. Cho thấy hình ảnh mang đậm bản sắc của xứ Huế, màu tím là màu đặc trưng của con người và đất trời Huế. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên ở phía đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân của đất trời. Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Một bức tranh đang suy tư bỗng đâu đó vang lên một tiếng chim hót làm sinh động hẳn lên, một con chim chiền chiện mà lại hót được vang cả trời, thực ra khoảng trời ấy chính là khoảng không gian riêng của tác giả, chính vì vậy mà chỉ có tác giả mới cảm nhận được điều đó mà thôi.

Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.

Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

ơi, con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”.

Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê nương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hòa hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa. Từng giọt long lanh rơi – Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc dược. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.

Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy bên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc

Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước.

Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.

Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập trong hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hòa ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, công hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.

Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:

Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai

Nam bình Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.

 
29 tháng 12 2019

=> Đáp án D

10 tháng 5 2019

Ý chính của bài thơ là miêu tả sự chuyển mùa kì diệu của thiên nhiên.

1 tháng 2 2016

           Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với "Tràng giang" của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với "Đây thôn Vĩ Giạ" của Hàn Mặc Tử.

          Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong "Đây mùa thu tới" thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.

          Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:

 

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng."

          Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc "chịu tang". Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau "hàng hàng" rủ xuống như "lệ" giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"

          Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: "Đã nghe rét mướt luồn trong gió". Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm "m" (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi "Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo" (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với "lá vàng" trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh "Mùa thu vàng" của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một "không gian vàng" – một màu vàng "mơ phai" rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của "cái hồn thu qua sắc lá" (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. "Mùa thu tới!" – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: "Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!". Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy "giục giã", "vội vàng".

          Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong "Đây mùa thu tới" đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong "Tràng giang" lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của "trời rộng", "sông dài”:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song"

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"

          Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ "con thuyền", "cành củi khô" đến "nước", "sóng" và cả "bờ xanh", "bãi vàng”, "bến cô liêu" đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

          Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn "mang mang thiên cổ sầu" và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với "bến cô liêu", với "bèo dạt", "mây", "cánh chim", "bóng chiều", với "khói hoàng hôn" với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.

          Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong "Tràng giang", "nỗi buồn thấm trong từng câu chữ", đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.

          Trong "Đây mùa thu tới" nỗi buồn tỏa ra từ niềm cô đơn, quạnh vắng, còn trong "Đây thôn Vĩ Giạ" nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với "Đây mùa thu tới" và "Tràng giang", "Đây thôn Vĩ Giạ" là một bài thơ "có bước nhảy cảm xúc" (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng "nhìn nắng hàng cau nắng mới lên", ngắm "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:

"Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay"

          "Đây mùa thu tới" nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: "Hơn một loài hoa đã rụng cành, trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" với cách nói phiếm định: "hơn một" đệm màu sắc văn hóa phương Tây, đầy mới mẻ. "Tràng giang" nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: "Con thuyền xuôi mái nước song song" mang dấu ấn cổ điển. Và "Đây thôn Vĩ Giạ" cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: "Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng "sông trăng" chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn của Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới", nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong "Tràng giang".

          Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân Diệu là nỗi "buồn không nói", của thơ Huy Cận là nỗi "buồn điệp điệp", của thơ Hàn Mặc Tử là nỗi "buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng ("Đây thôn Vĩ Giạ"); xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp ("Tràng giang"); xóa cái lạnh của lòng người, tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời ("Đây mùa thu tới"). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.

          Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.

 

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 11 2023

- Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua bài Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ấy).

- Quan sát các câu thơ có miêu tả khung cảnh thiên nhiên mùa thu.

- Phân tích một vài hình ảnh thiên nhiên mà mình có ấn tượng sâu sắc nhất, từ đó nêu lên nét độc đáo của Xuân Diệu khi miêu tả thiên nhiên.

- Có thể lấy đoạn thơ

“Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu

La lả cành hoang nắng trở chiều

Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân”

+ Khung cảnh chiều thu vui tươi, trong sáng, hữu tình huyền diệu

+ Con đường thu được tác giả miêu tả nho nhỏ, cây lá lả lơi, yểu điệu trong gió… mời gọi những bước chân đôi lứa

+ Sang khổ thơ thứ tư chiều thu sương lạnh xuống dần, chòm mây cô đơn, cánh chim cô độc, đều tìm về nơi chốn của mình.

+ Các từ láy xiêu xiêu, nho nhỏ, gấp gấp, phân vân làm cho nhịp điệu bài thơ uyển chuyển, bay bổng.

24 tháng 11 2023

Phân tích cụ thể một vài hình ảnh thiên nhiên mà bạn có ấn tượng rõ rệt nhất, từ đó nêu lên nét độc đáo của Xuân Diệu khi miêu tả thiên nhiên. Có thể lấy một vài câu thơ tiêu biểu như:

“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều";

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân”

Xuân Diệu có biệt tài sử dụng từ láy. HS phân tích sức gợi cảm và hiệu quả tạo hình của các từ láy trong những dòng thơ trên.

Bạn có thể so sánh cách miêu tả mùa thu trong bài Thơ duyên với cách miêu tả mùa thu trong bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư hoặc bài Sang thu của Hữu Thỉnh để khẳng định nét độc đáo của Xuân Diệu.

7 tháng 5 2023

Xuân Diệu cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu trong Thơ duyên rất độc đáo và gợi cảm. Ví dụ ở câu kết cuối bài “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”, tác giả không dùng từ “phải lòng” hay “anh cưới em” mà là “lòng anh cưới em”. Chúng ta vẫn thường nghĩ đến mùa thu là một mùa tuy lãng mạn nhưng cũng buồn bã, cô đơn. Đó là tâm trạng phổ biến trong mỗi bài thơ về mùa thu của các tác giả, như trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, khi đọc Thơ duyên ta lại thấy sự yêu đời, tươi trẻ trong những “duyên tình” qua sự gắn bó, tươi mới của cảnh vật thiên nhiên khi vào thu. Và Thơ duyên là bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ về mùa thu của Xuân Diệu.

 
18 tháng 3 2018

Cảnh thiên nhiên được miêu tả trong:

- Thời gian: vào buổi tối lúc trăng tròn nhất

- Không gian: Không gian được miêu tả trong bài “Rằm tháng riêng” là một không gian rộng lớn của trời mây sông nước. Bầu trời, mặt nước, dòng sông như nối liền, trải rộng bởi sắc xuân bát ngát

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

- Bức tranh thiên nhiên trên đường từ Bạch Đế đến Giang Lăng được quan sát, miêu tả qua cái nhìn của tác giả Lý Bạch khi ông đang trên thuyền rời Bạch Đế về Giang Lăng.

- Bài thơ được viết trong hoàn cảnh chia xa nhưng khung cảnh không mang nét tiếc nuối, buồn bã mà rất hùng vĩ, rực rỡ, thanh thản. Khung cảnh thiên nhiên giữa con người với cảnh vật như hòa làm một. Dù không nhắc đến thác nước và núi non nhưng qua ngòi bút tài hoa người đọc vẫn có thể cảm nhận được bức tranh thiên nhiên lúc đó.

1 tháng 8 2019

Mùa xuân thiên nhiên, đất trời xứ Huế:

   + Hoa tím biếc, dòng sông xanh, chim chiền chiện hót vang trời

   + Không gian rộng lớn, bao la, màu sắc đặc trưng của Huế (tím, xanh), hòa với âm thanh sự sống

- Cảm xúc bồi hồi, rộn ràng của tác giả trước cảnh vật thiên nhiên xứ Huế

   + Tác giả trân trọng sự sống (tôi đưa tay tôi hứng)

   + Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, các yếu tố hữu hình, cảm nhận bởi nhiều giác quan

- Hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và sự sống tha thiết của nhà thơ

- Khổ thơ thứ hai thể hiện tình yêu với mùa xuân đất nước:

   + Mùa xuân đất nước cụ thể hóa bằng hình ảnh người cầm súng, người ra đồng

   + Suy ngẫm và chiêm nghiệm của tác giả khi nhìn thấy "lộc" từ mùa xuân đất nước

   + Từ láy "hối hả" và "xôn xao" thể hiện nhịp phát triển, thời kì mới của đất nước

   + So sánh đất nước với vì sao: sự trường tồn vững bền của đất nước

⇒ Hình ảnh mùa xuân tự nhiên và đất nước đối sánh với nhau qua lăng kính yêu cuộc đời, khao khát sống của tác giả

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 11 2023

- Thiên nhiên trong bài thơ được quan sát, miêu tả vào thời điểm: mùa đông.

- Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện điều đó:

+ Nắng hanh: đặc trưng nắng mùa đông.

+ Tiếng sếu vọng sông ngày: tiếng sếu kêu nghĩa là báo hiệu mùa đông đã tới.

Xuân sắp sang rồi, xuân sắp qua: biểu hiện rõ ràng mùa xuân sắp tới, từ đó thấy ưđược hiện tại chính là mùa đông đang diễn ra