K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 3

-ko khai thách rừng

-trồng rừng



Rừng ở Hà Tĩnh có vai trò vô cùng quan trọng đối với môi trường, kinh tế và đời sống người dân. Tuy nhiên, cũng như nhiều khu vực khác, rừng Hà Tĩnh đang đối mặt với nhiều thách thức. Dưới đây là những nguyên nhân chính và các giải pháp để bảo vệ rừng Hà Tĩnh:

I. Nguyên nhân suy thoái và mất rừng ở Hà Tĩnh:

  1. Cháy rừng:
    • Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: Hà Tĩnh có khí hậu nóng ẩm, mùa hè khô hanh kéo dài, đặc biệt chịu ảnh hưởng của gió Lào khô nóng, làm tăng nguy cơ cháy rừng lên rất cao. Thảm thực vật khô dễ bắt lửa.
    • Hoạt động của con người: Đốt thực bì làm nương rẫy, sử dụng lửa bất cẩn trong rừng (đốt ong, nấu ăn, hút thuốc...), đốt vàng mã gần rừng... là những nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều vụ cháy lớn.
  2. Khai thác gỗ trái phép:
    • Nhu cầu về gỗ và lâm sản vẫn còn cao.
    • Hoạt động của "lâm tặc" diễn ra tinh vi, khó kiểm soát ở những khu vực rừng sâu, giáp ranh.
    • Chế tài xử phạt đôi khi chưa đủ sức răn đe.
  3. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất:
    • Phát triển kinh tế - xã hội: Áp lực từ việc mở rộng đất nông nghiệp (trồng keo, cao su, cây ăn quả...), xây dựng cơ sở hạ tầng (đường sá, hồ đập, khu công nghiệp...) dẫn đến việc một phần diện tích rừng tự nhiên bị chuyển đổi.
    • Quy hoạch chưa bền vững: Việc quy hoạch sử dụng đất đôi khi chưa thực sự khoa học, chưa đánh giá đầy đủ tác động môi trường, dẫn đến mất rừng.
  4. Khai thác tài nguyên rừng quá mức:
    • Khai thác các loại lâm sản ngoài gỗ (măng, mật ong, dược liệu...) không bền vững, ảnh hưởng đến khả năng tái sinh và đa dạng sinh học của rừng.
  5. Biến đổi khí hậu:
    • Hạn hán kéo dài làm tăng nguy cơ cháy rừng và ảnh hưởng đến sức khỏe hệ sinh thái rừng.
    • Bão lũ với cường độ mạnh gây gãy đổ cây cối, xói mòn đất ở vùng đồi núi có rừng che phủ.
  6. Nhận thức và nguồn lực hạn chế:
    • Một bộ phận người dân sống gần rừng còn có nhận thức hạn chế về vai trò, tầm quan trọng của rừng và các quy định pháp luật về bảo vệ rừng.
    • Lực lượng kiểm lâm còn mỏng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, đặc biệt là trong công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR). Kinh phí đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng còn hạn chế.

II. Giải pháp bảo vệ rừng Hà Tĩnh:

  1. Nâng cao hiệu quả công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR):
    • Dự báo, cảnh báo sớm: Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo nguy cơ cháy rừng đến cấp xã/thôn.
    • Phương châm "4 tại chỗ": Chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, hậu cần và chỉ huy tại chỗ để ứng phó nhanh nhất khi có cháy xảy ra.
    • Đầu tư trang thiết bị: Bổ sung các phương tiện, thiết bị PCCCR hiện đại (máy thổi gió, máy bơm, flycam giám sát...).
    • Xây dựng công trình PCCCR: Làm đường băng cản lửa, các chòi canh lửa, bể chứa nước.
    • Tuyên truyền, diễn tập: Thường xuyên tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về PCCCR, tổ chức diễn tập các phương án chữa cháy.
    • Xử lý nghiêm: Điều tra, xử lý nghiêm các hành vi gây cháy rừng.
  2. Tăng cường quản lý, ngăn chặn khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép:
    • Tuần tra, kiểm soát: Tổ chức các đợt tuần tra, truy quét tại các điểm nóng, khu vực giáp ranh. Lập các chốt kiểm soát lâm sản lưu động và cố định.
    • Phối hợp lực lượng: Tăng cường phối hợp giữa Kiểm lâm, Công an, Quân đội và chính quyền địa phương.
    • Ứng dụng công nghệ: Sử dụng ảnh vệ tinh, flycam để giám sát biến động tài nguyên rừng.
    • Xử lý nghiêm minh: Áp dụng các chế tài pháp luật nghiêm khắc đối với các đối tượng vi phạm.
  3. Quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng:
    • Rà soát quy hoạch: Rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch 3 loại rừng đảm bảo tính khoa học và bền vững.
    • Thẩm định chặt chẽ: Thực hiện nghiêm quy trình thẩm định các dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên, đánh giá kỹ lưỡng tác động môi trường.
    • Trồng rừng thay thế: Thực hiện nghiêm túc và hiệu quả việc trồng rừng thay thế khi chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
  4. Thúc đẩy phát triển rừng bền vững và phục hồi rừng:
    • Trồng rừng: Đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ, đặc dụng và rừng sản xuất (ưu tiên cây bản địa, cây gỗ lớn).
    • Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh: Bảo vệ các khu vực rừng có khả năng tự phục hồi.
    • Phát triển lâm sản ngoài gỗ: Hướng dẫn người dân khai thác bền vững và phát triển các mô hình trồng lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế.
  5. Nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của cộng đồng:
    • Tuyên truyền, giáo dục: Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền về pháp luật bảo vệ rừng, vai trò của rừng đối với đời sống và môi trường.
    • Giao rừng, khoán bảo vệ rừng: Mở rộng việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng, hộ gia đình gắn với cơ chế hưởng lợi rõ ràng.
    • Phát triển sinh kế thay thế: Hỗ trợ người dân sống gần rừng phát triển các mô hình kinh tế bền vững (du lịch sinh thái cộng đồng, nông lâm kết hợp...) để giảm áp lực vào rừng.
    • Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES): Thực hiện hiệu quả chính sách này để tạo nguồn tài chính bền vững cho công tác bảo vệ rừng và cải thiện đời sống người dân.
  6. Tăng cường nguồn lực và ứng dụng khoa học công nghệ:
    • Đầu tư: Tăng cường đầu tư ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội cho công tác bảo vệ và phát triển rừng.
    • Nâng cao năng lực: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng kiểm lâm và các lực lượng tham gia bảo vệ rừng.
    • Nghiên cứu khoa học: Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý, giám sát tài nguyên rừng, chọn giống cây trồng, phòng trừ sâu bệnh hại, PCCCR...

Bảo vệ rừng Hà Tĩnh là nhiệm vụ phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các ngành chức năng, doanh nghiệp và đặc biệt là sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương.

24 tháng 5 2016

     Chắc đủ dài roay!  banh

Tài nguyên rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của loài người, rừng là cái nôi của sự sống, là lá phổi xanh của nhân loại, có giá trị to lớn trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước chống xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, cung cấp nguồn nước sạch sinh hoạt và sản xuất cho con người. Rừng là bảo tàng sống sinh động nhất, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, trong đó có nhiều nguồn gen quý hiếm. Rừng phục vụ cho việc phát triển các ngành nông nghiệp, thủy lợi, thủy điện, công nghiệp, du lịch, an ninh quốc phòng,... Ngoài ra sản phẩm của rừng như gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng các dân tộc từ miền núi, nông thôn đến thành thị.

Từ xưa đến nay, nói đến giá trị của rừng ông cha ta thường kể đến các loài gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dổi, vàng tâm,... để xây dựng nhà cửa, đóng đồ mộc trang trí trong nhà chứ ít ai nhắc đến các sản vật khác lấy từ rừng, có nhiều lúc những sản phẩm tưởng như rất đơn giản này lại chính là cứu cánh cho sự sống còn, tồn vong và phát triển của con người, đó là các loài cây cho lương thực, thực phẩm thu hái trong rừng vào những năm đói kém hay vào thời gian giáp hạt, những căn bệnh hiểm nghèo duy nhất chỉ trông chờ vào các phương thuốc quý giá từ cây cỏ trong thiên nhiên. Những loại sản vật kể trên nói theo cách ngày nay được gọi là lâm sản ngoài gỗ (LSNG).

Rừng nước ta thuộc vùng nhiệt đới nên rất đa dạng và phong phú, cho đến nay về thực vật đã ghi nhận 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 2.524 chi của 378 họ. Về động vật ghi nhận 289 loài thú, 828 loài chim, 258 loài bò sát và 82 lưỡng cư và 1.340 loài côn trùng. Nghệ An là một trong những tỉnh có tài nguyên và diện tích rừng lớn nhất cả nước, riêng Vườn quốc gia Pù Mát đã ghi nhận 2.494 loài thực vật và 919 loài động vật, còn hai Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) là Pù Huống, Pù Hoạt và nhiều khu rừng khác chưa được điều tra đầy đủ đang ẩn chứa đựng nhiều loài động thực vật có giá trị.

Phần lớn người dân sống ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa là đồng bào các dân tộc thiểu số như Thái, Kh'Mú, H'Mông, Thổ, Ơ Đu... từ lâu sống chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Ngoài lấy gỗ để xây dựng nhà cửa thì con người sử dụng rất nhiều loài lâm sản khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất hàng ngày. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển, tốc độ gia tăng dân số càng nhanh, áp lực về lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, tình trạng chặt phá rừng diễn ra gay gắt, tài nguyên rừng bị suy thoái nghiêm trọng, chất lượng rừng giảm sút và xuống cấp đáng báo động, nhất là các khu rừng đặc dụng, người dân vẫn công khai hoặc lén lút chặt phá, khai thác các sản phẩm từ rừng, làm cho tài nguyên này trở nên cạn kiệt, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ diệt chủng.

Lâu nay nói đến bảo tồn tài nguyên rừng người ta thường quan tâm đến những nguồn gen cây gỗ hay một loài động vật đang bị tuyệt chủng, loài quý hiếm, đặc hữu nào đó hay là toàn bộ hệ sinh thái rừng đặc trưng cho vùng, cho một khu vực mà chưa quan tâm đến yếu tố mang lại nguồn lợi cho người dân để nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, giảm áp lực phá rừng bừa bãi, đó là các sản phẩm LSNG. Trong một thời gian dài các sản phẩm LSNG bị xem thường và đến một lúc nào đó nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát triển chúng thì không những ảnh hưởng đến đời sống của người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn đe dọa suy thoái tính đa dạng sinh học của rừng, hệ sinh thái rừng.

Thực trạng khai thác lâm sản ngoài gỗ.

Qua tìm hiểu thực tế một số huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương,... cho thấy có nhiều loài quý hiếm, loài cấm hoặc hạn chế khai thác, loài có giá trị cao đang bị khai thác quá mức. Trong đó nhiều loài làm thuốc chữa bệnh có giá trị như bách bộ (Stemona tuberosa Lour.), thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.), củ mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk.), lá khôi (Ardisia sylvestris Pit.), cốt toái bổ (Drynaria bonii Christ), đẳng sâm (Condonopsis javanica (Blume) Hook.f.), ba kích (Morinda officinalis F.C.How.), sắn dây rừng (Pueraria montana (Lour.) Merr.),...

Nhiều loài đan lát thủ công mỹ nghệ như song mây, theo người dân sống ở vùng đệm Pù Huống, trước đây đi vào rừng chỗ nào cũng gặp nhưng đến nay trở nên hiếm, nguyên nhân do người dân khai thác quá mức, người dân lại có phong tục ngoài lấy thân mây trưởng thành còn đào lấy cả chồi non (đọt mây) làm rau ăn nên nguồn giống bị mất dần đến nay trở nên hiếm, cho nên việc tìm giống ở địa phương để gây trồng gặp khó khăn.

Nhiều loài cây cho tinh dầu cũng bị khai thác lạm dụng. Quế là một trong những loài bản địa có giá trị, trước đây sản phẩm nổi tiếng quế quỳ và quế quảng đã được thương lái Sài Gòn thu mua, qua con đường Hồng Kông xuất khẩu sang Hoa Kỳ, bán trên thị trường San Francisco với thương hiệu "Sai gon cassia". Trong đó quế quỳ được xếp vào loại nhất (theo Tập san kinh tế Viễn đông, quý IV năm 1941). Do đó, quế quỳ được mệnh danh là "Nhất quế quỳ, nhì quế quảng". Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp một phần Nhà nước phát động trồng quế đại trà nên có nhiều nguồn giống quế được đem vào trồng, một phần quế quỳ nổi tiếng nên bị khai thác quá mức do vậy mà ngày nay nguồn gen quý hiếm này có nguy cơ biến mất và khó xác định. Một loài khác cho giá trị tinh dầu quý là trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte) cũng là đối tượng săn lùng những năm 1990 -1995 nên bị khai thác kiệt quệ, cây trong rừng tự nhiên trở nên hiếm. Các loài như vù hương (Cinnamomum balansae Lecomte), re hương (Cinnamomum parthenoxylon Meisn.) bị đe dọa cao, trong rừng tự nhiên chúng bị khai thác toàn bộ cây chưng cất tinh dầu nên cạn kiệt dần. Cây dây nhớt (Tiliacus sp.) làm hương liệu, được thu mua nhiều trên thị trường, cho thu nhập cao, nhưng người dân thường tước vỏ từ gốc đến ngọn cây nên cây dễ bị chết. Hương bài cũng cho một loại tinh dầu quý nhưng cho đến nay vẫn chưa được chú ý gây trồng và phát triển. Các loài cây cho hương liệu khác chủ yếu được nhân dân thu hái trong rừng bán hoặc sử dụng vào công dụng khác.

Đối với mật ong rừng thì người dân còn có tập tục là khai thác cả tổ, lấy mật và bắt luôn cả đàn ong ngâm rượu nên lượng mật ong khai thác bị giảm đáng kể, do đó khi khai thác ngoài khai thác đúng mùa vụ cho mật thì không nên bắt ong con, trừ trường hợp gây nuôi. Còn với cánh kiến đỏ, trước đây là một nghề truyền thống của đồng bào vùng cao xã Quang Phong, Cắm muộn,... (huyện Quế Phong), Hữu Kiệm, Hữu Lập,... (huyện Kỳ Sơn) nhưng theo thời gian bị mai một dần. Hiện nay, các ngành, các cấp đang giúp người dân khôi phục và phát triển, gây nuôi trên các cây rừng tự nhiên như đậu thiều, píc niễng,...

Kết quả khảo sát thu mua LSNG tại 3 huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Quế Phong cho thấy có 10 loại sản phẩm LSNG bị suy giảm nghiêm trọng bao gồm sắn dây rừng, hoàng đằng, thổ phục linh, thiên niên kiện, bách bộ, cẩu tích, vỏ dây nhớt, lá khôi, rễ chay, củ mài. Có 7 sản phẩm tương đối ổn định, ít biến động như hoa chít, quả tai chua, quả sa nhân sẹ, quả cau, dây guột, nhựa cánh kiến đỏ, vỏ quế. Có một loại sản phẩm măng là tăng dần theo các năm.

Nguyên nhân suy thoái tài nguyên lâm sản ngoài gỗ.

Nguyên nhân trực tiếp.

1. Cách thu hái, khai thác chưa phù hợp: Nhiều loài bị khai thác không đúng với bộ phận sử dụng của chúng hoặc khai thác đúng bộ phận nhưng lại khai thác kiệt. Ví dụ như lá khôi thì chỉ cần thu hái lá mà không cần đào cả thân, rễ. Những cây lấy quả hạt như trám, tai chua, dẻ,... chỉ thu hái quả mà không cần phải đốn cả cây. Cây lấy rễ củ như bách bộ, hoàng đằng, thổ phụ linh, cẩu tích, hà thủ ô trắng, củ mài... chỉ nên thu hái một phần rễ cho cây tái sinh hoặc thu hái xong phải lấp chồi gốc lại cho tái sinh mùa sau. Những cây lấy thân, măng như các loài tre nứa thì không khai thác kiệt hết cả khóm bụi mà nên chừa lại một số cây cho tái sinh, phát triển mùa sau. Như vậy do hình thức thu hái không phù hợp mà nhiều loài mất giống, loài không còn khả năng tái sinh, loài không kịp tái sinh dẫn tới sẽ bị diệt vong.

2. Lịch thu hái một số loài LSNG không đúng thời vụ: Trong hoạt động sản xuất cũng như tự nhiên thì các loài cây sẽ cho các sản phẩm có chất lượng cao trong một thời gian, mùa vụ nhất định, do đó mà khi thu hái con người phải biết vận dụng để mang lại hiệu quả cao nhất. Kết quả khảo sát 50 loài, nhóm loài chính được trao đổi buôn bán trên thị trường cho thấy có 19 loại sản phẩm thu hái cả năm, 31 loại thu hái theo mùa vụ. Tuy nhiên, đối với các loài thu hái cả năm, người dân khai thác cả thời kỳ cây ra hoa kết quả, điển hình là các loài song mây, rễ chay, hoàng đằng, sắn dây rừng, dây nhớt,... dẫn tới nhiều loài không còn nguồn hạt để phát tán, dẫn giống mở rộng phạm vi phân bố cho các thế hệ tiếp theo do đó cây trở nên khan hiếm dần nguy cơ đe dọa diệt chủng. Nhiều loài cây khai thác đúng mùa vụ như cây lấy quả như quả sa nhân sẹ, sở, trẩu, dẻ,... Nhưng muốn nâng cao năng suất và chất lượng thì người dân phải làm giàu rừng, xúc tiến tái sinh tự nhiên bằng cách trồng thêm, khoanh nuôi các loài cây trên để tạo ra hàng hóa cho thu nhập cao và ổn định.

3. Cường độ khai thác LSNG quá cao: Kết quả điều tra tại một điểm thu mua LSNG ở bản Nật Trên cho thấy trong năm 2003 (từ tháng 10 đến tháng 12) khối lượng thu mua rễ hoàng đằng mỗi ngày 1 tấn, sang năm 2005 cũng thời gian đó, mỗi ngày chỉ thu mua được 0,3 tấn. Một người dân mỗi ngày thu hái hái cho thu nhập 60.000 - 70.000 đồng cao hơn nhiều lần so với làm rẫy. Việc thu mua LSNG với khối lượng không hạn chế đồng nghĩa với việc người dân tăng cường cường độ khai thác, họ huy động mọi n...

25 tháng 5 2016

j

20 tháng 5 2017

Đáp án:

Để bảo vệ rừng và tài nguyên rừng, biện pháp cần làm là thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và các vườn quốc gia

Đáp án cần chọn là: B

6 tháng 4 2017

Để bảo vệ rừng và tài nguyên rừng, cần thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và các vườn quốc gia.

Đáp án cần chọn là: C

2 tháng 12 2018

Đáp án C

4 tháng 12 2017

- Những biện pháp để bảo vệ tài nguyên rừng và đất rừng:

       + Nghiêm cấm mọi hành động phá rừng, gây cháy rừng, lấn chiếm rừng, mua bán lâm sản trái pháp, săn bán đông vật rừng. Ai xâm phạm tài nguyên rừng sẽ bị xử lí theo luật pháp.

       + Chính quyền địa phương cơ quan lâm nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp về: định canh, định cư, phòng chống cháy rừng, chăn nuôi gia súc.

       + Cá nhân hay tập thể chỉ được khai thác rừng và sản xuất trên đất rừng khi được cơ quan lâm nghiệp cấp giấy phép, phải tuân theo các quy định về bảo vệ và phát triển rừng.

24 tháng 11 2021

báo của cụ mình đấy ,nhớ ấn đúng nha

Những tháng đầu năm 2021, phong trào “Tết trồng cây” được các địa phương hưởng ứng, xây dựng kế hoạch hành động cụ thể về trồng rừng, bảo vệ rừng và trồng cây phân tán để bảo vệ thiên nhiên, môi trường sinh thái. Nhờ đó, số cây lâm nghiệp trồng phân tán trong tháng 02/2021 tăng cao, ước tính đạt 7 triệu cây và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ thị 45/CT-TTg do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 31/12/2020 về tổ chức phong trào “Tết trồng cây” và tăng cường công tác bảo vệ, phát triển rừng đề ra mục tiêu trồng mới 01 tỉ cây xanh giai đoạn 2021-2025, riêng năm 2021, chỉ tiêu trồng cây xanh cao hơn 1,5 lần và từ năm 2022 đến 2025 cao gấp 2 lần so với kết quả thực hiện năm 2020. Đây là chương trình vô cùng có ý nghĩa, tiếp bước truyền thống hơn 60 năm qua từ khi Bác Hồ trực tiếp phát động” Tết trồng cây” ngày 28/11/1959 trong công cuộc kháng chiến đi đôi với kiến quốc, Bác Hồ chỉ rõ: “Việc này ít tốn kém mà lợi ích nhiều, góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống nhân dân.”

Trồng rừng và bảo vệ rừng là một trong những việc làm hết sức thiết thực để phát triển bền vững. Phát triển rừng là trọng yếu để bảo vệ môi trường, ước tính năm 2019, Việt Nam có 14,6 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên đạt gần 10,3 triệu ha, rừng trồng đạt 4,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt gần 42%, cao hơn mức bình quân thế giới (29%)[1]. Rừng tự nhiên trong 10 năm từ 2009 – 2019 không có biến động giảm nhiều[2] , điều này chứng tỏ Chính phủ khá chú trọng tới công tác bảo vệ rừng tự nhiên thay vì chỉ quan tâm tới trồng rừng. Rừng trồng mới không thể thay thế được rừng già, rừng nguyên sinh, bởi khi bị phá đi, lớp thực bì dày từ 50cm – 1m cũng không còn, khi có mưa lũ sẽ gây ra tình trạng xói lở, lũ ống lũ quét. Chất lượng rừng ngày càng giảm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng thiên tai, lũ lụt, gây thiệt hại nặng nề đến tính mạng và tài sản của con người.

Trồng rừng cần đi đôi với bảo vệ rừng tự nhiên, tỷ lệ che phủ rừng tăng là một trong các chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững ở các quốc gia trong bộ chỉ tiêu về tài nguyên và môi trường và chỉ tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, đi kèm với tỷ lệ che phủ rừng cần đảm bảo tiêu chí về chất lượng rừng vì trong diện tích che phủ rừng phần lớn là diện tích rừng trồng kinh tế, gồm cây công nghiệp và nguyện liệu giấy, rừng trồng không có thực bì, sau chu kỳ 5 – 10 năm khai thác, rừng vừa được phủ xanh sẽ lại bị mất đi. Cây trồng phủ xanh cần có giá trị kinh tế, không ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng của các cây tầng thấp để có thể nhân rộng các mô hình sản xuất dưới tán rừng như trồng mây, sa nhân, thảo quả, nuôi ong… giúp người dân có thêm thu nhập, yên tâm giữ rừng.

Một trong các nội dung được đề cập tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV là việc nâng cao tỷ lệ che phủ rừng gắn liền với ổn định đời sống của người dân làm nghề rừng. Trước đây các hộ khoanh nuôi bảo vệ rừng chỉ nhận được 50.000 đồng/ha/năm, hiện nay lên tới 250.000 đồng/ha/năm, theo lộ trình sắp tới có thể nâng lên thành 1 triệu đồng/ha/năm mới bảo đảm chất lượng độ che phủ rừng từng bước được nâng cao. Diện tích khoanh nuôi, bảo vệ rừng cũng cần nâng lên 2 triệu ha mới, từng bước đảm bảo cho chất lượng của 10,3 triệu ha rừng tự nhiên hiện có. Nhờ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mỗi năm ngành Lâm nghiệp thu được 30.000 tỷ đồng. Ngày 20/10/2020, Việt Nam chính thức ký kết hợp tác về tín chỉ các bon từ rừng. Nhờ đó, nước ta bán được 10 triệu m3 CO2, mỗi 1m3 CO2 là 5 USD[3].

Nạn chặt phá rừng hiện đang là vấn đề đáng lo ngại ở nước ta và các quốc gia khác trên thế giới. Các cấp chính quyền, các ngành chức năng và người dân tại địa phương nơi quản lý rừng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm để bảo vệ “lá phổi xanh”. Tháng 02/2021, cả nước có gần 59 nghìn ha rừng bị chặt phá, lấn chiếm; tính chung cả 2 tháng đầu năm 2021 diện tích rừng bị chặt, phá là118 nghìn ha. Một số tỉnh có diện tích chặt phá, lấn chiếm nhiều nhất trong tháng Hai là Kon Tum 25,8 ha, Yên Bái 14,7 ha, Kiên Giang 6 ha, Bắc Kạn gần 4,4 ha, Sơn La 2,4 ha, chiếm 90% diện tích bị chặt phá, lấn chiếm của cả nước. Trong 10 năm trở lại đây, lợi nhuận từ rừng trồng lấy gỗ hoặc trồng các loại cây ngắn ngày, như gừng, thạch đen cũng rất cao. Vì vậy, nhiều hộ dân cố ý khai thác rừng, phá rừng tự nhiên trái phép để lấy đất sản xuất, trồng rừng mới. Cháy rừng cũng là một trong các nguyên nhân làm giảm diện tích rừng hiện có, trong tháng Hai có 14,2 ha rừng bị cháy; tính từ đầu năm tổng diện tích rừng bị cháy là gần 83 ha, trong đó Quảng Ninh đứng đầu với gần 10,2 ha, tiếp theo là Bắc Kạn 2,1 ha, Bắc Giang 1,1 ha. Các địa phương có nguy cơ cháy rừng cao cần theo dõi sát sao hơn nữa để có thể ứng phó kịp thời khi xảy ra cháy rừng, không chỉ dựa vào các mức cảnh báo cháy rừng theo kỹ thuật hiện có, mà còn phải đôn đốc trực tiếp các hộ khoanh nuôi bảo vệ rừng, đảm bảo nhận thông báo kịp thời và luôn chuẩn bị sẵn sàng khi cháy rừng xảy ra.

Môi trường ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm không khí, đang tiếp tục gia tăng với tốc độ đáng báo động, ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống của con người cũng như các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội, nhất là ở các đô thị lớn. Quá trình đô thị hóa ở nước ta có tốc độ nhanh dẫn đến sức ép lớn lên môi trường. Hệ thống cây xanh công cộng cấp đô thị chưa được quan tâm đầu tư thích đáng, tỷ lệ đất công viên cây xanh đô thị đạt rất thấp so với tiêu chuẩn. Theo Tổng cục Lâm nghiệp, hiện nay tỷ lệ cây xanh trên mỗi người dân tại các đô thị lớn của Việt Nam chỉ ở mức từ 2 – 3 m2/người, trong khi đó, chỉ số tỷ lệ cây xanh/người của các thành phố hiện đại trên thế giới phổ biến từ 20 – 25 m2/người. Để nâng cao tỷ lệ cây xanh trên mỗi người dân ở đô thị, trong dự thảo đề án “Trồng 1 tỉ cây xanh” trong giai đoạn 2020 – 2025 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đặt mục tiêu trong 5 năm tới sẽ trồng 690 triệu cây xanh phân tán ở vùng đô thị và nông thôn.

Trong những năm qua, Việt Nam hứng chịu nhiều tác động nghiêm trọng của thiên tai, hiện tượng thời tiết cực đoan theo chiều hướng ngày càng gia tăng, để lại hậu quả nặng nề. Do đó, yêu cầu bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng nguyên sinh tự nhiên vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài có sự định hướng của Chính phủ, và trên hết cần có sự đoàn kết, chung sức của người dân cả nước nhằm phát triển đất nước theo hướng bền vững.

 
2 tháng 5 2023

Nguyên nhân : 

+ Chặt phá cây rừng , đất rừng , lấy gỗ

+ lấy đất canh tác 

+ cháy rừng do biến đổi khí hậu từ những hoạt động sống của con người 

+ khai thác khoáng sản 

+ làm đường giao thông 

Biện pháp : 

+ các nước kí hiệp ước bảo vệ môi trường rừng 

+ hạn chế khai thác gỗ 

+ tăng cường các luật bảo vệ môi trường 

+ trồng lại các vùng bị mất hết cây rừng 

+ khuyến khích phát triển nông nghiệp đi đôi với tôn trọng rừng 

+ mở rộng các khu bảo tồn 

+ hỗ trợ tài chính 

+ đẩy mạnh vai trò công cộng bản địa 

 

em là học sinh em sẽ : 

+ trồng rừng , phủ xanh đồi trọc

+ đề ra các chính sách biện pháp bảo vệ rừng 

+ tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường rừng

 + đưa ra những biện pháp trừng phạt những kẻ phá rừng , hủy hoại tài nguyên rừng 

+ Cuối cùng chúng ta cần tuyền truyền nâng cao nhận thức của mọi người và đồng thời đưa ra các biện pháp để cải thiện trong việc bảo vệ rừng Amazon 

                      @animephamzinhhy913-hoc24.vn 

 

5 tháng 5 2023

Nguyên nhân : 

+ Chặt phá cây rừng , đất rừng , lấy gỗ

+ lấy đất canh tác 

+ cháy rừng do biến đổi khí hậu từ những hoạt động sống của con người 

+ khai thác khoáng sản 

+ làm đường giao thông 

Biện pháp : 

+ các nước kí hiệp ước bảo vệ môi trường rừng 

+ hạn chế khai thác gỗ 

+ tăng cường các luật bảo vệ môi trường 

+ trồng lại các vùng bị mất hết cây rừng 

+ khuyến khích phát triển nông nghiệp đi đôi với tôn trọng rừng 

+ mở rộng các khu bảo tồn 

+ hỗ trợ tài chính 

+ đẩy mạnh vai trò công cộng bản địa 

8 tháng 5 2023

cảm ơn bạn nhiều nhé vui

16 tháng 1 2017

Đáp án D

Biện pháp hàng đầu để bảo vệ tài nguyên rừng ở Tây Nguyên là: đẩy mạnh việc giao đất, giao rừng