K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu chuyện "Trái tim mang nhiều thương tích" là một câu chuyện cảm động và sâu sắc, mang đến cho người đọc nhiều bài học quý giá về tình yêu thương, sự sẻ chia và giá trị của những trải nghiệm trong cuộc sống. Dưới đây là những bài học em rút ra được từ câu chuyện này:

  • Tình yêu thương không hoàn hảo:
    • Câu chuyện dạy cho chúng ta rằng, tình yêu thương không nhất thiết phải hoàn hảo. Trái tim mang nhiều thương tích, những vết sẹo, những mảnh ghép chắp vá lại chính là minh chứng cho một trái tim đã từng yêu thương, từng trải qua những thăng trầm của cuộc sống.
    • Những vết thương lòng, những nỗi đau, những mất mát không làm cho trái tim trở nên xấu xí, mà ngược lại, nó làm cho trái tim trở nên mạnh mẽ, giàu cảm xúc và đáng trân trọng hơn.
  • Sự sẻ chia làm cho cuộc sống ý nghĩa hơn:
    • Việc ông lão chia sẻ những mảnh ghép trái tim của mình cho người khác, và nhận lại từ họ những mảnh ghép yêu thương, đã tạo nên một trái tim đầy ắp kỷ niệm và tình cảm.
    • Sự sẻ chia giúp chúng ta kết nối với nhau, tạo nên những mối quan hệ bền chặt và làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
  • Trân trọng những trải nghiệm:
    • Những vết sẹo trên trái tim ông lão là dấu ấn của những trải nghiệm trong cuộc sống. Dù đó là những trải nghiệm vui buồn, hạnh phúc hay đau khổ, chúng đều góp phần tạo nên con người của chúng ta.
    • Chúng ta cần trân trọng những trải nghiệm đó, học hỏi từ chúng và dùng chúng để hoàn thiện bản thân.
  • Vẻ đẹp thực sự nằm ở bên trong:
    • Câu chuyện nhắc nhở chúng ta rằng, vẻ đẹp thực sự không nằm ở vẻ bề ngoài hoàn hảo, mà nằm ở bên trong, ở những giá trị tinh thần, ở lòng nhân ái và sự sẻ chia.
    • Chúng ta đừng quá chú trọng vào vẻ đẹp bên ngoài mà bỏ qua vẻ đẹp bên trong của mỗi con người.

Tóm lại, câu chuyện "Trái tim mang nhiều thương tích" là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về giá trị của tình yêu thương, sự sẻ chia và những trải nghiệm trong cuộc sống. Hãy mở lòng mình để yêu thương và đón nhận những yêu thương từ mọi người xung quanh bạn nhé.

14 tháng 3 2018

trái tim mang nhiều nỗi đau buồn sâu nặng , khó phai

Trong cuộc đối thoại với bà cô và bé Hồng :

bà cô được tác giả miêu tả về là : giọng nói mang những ý nghĩa cay độc, nét mặt khi cười rất kịch, giọng nói ngọt, mắt long lanh, cử chỉ vỗ vai, giọng điệu ngân dài, lộ rõ ác ý, châm chọc nhục mạ cháu

=> Bà cô là người lạnh lùng, độc ác nham hiểu.

bé Hồng thì lại được miêu tả là : khóe mắt cay cay, nước mắt rơi đầm đìa, cười dài trong tiếng khóc, cổ họng nghẹn ứ không ra tiếng khi nghe bà cô kể về sự vất vả của mẹ

=> Bé Hồng là một cậu bé có lòng yêu thương mẹ sâu sắc.

Chúc bạn học tốt ^^

1 tháng 3 2022

bài này kh ổn 

Đoạn văn mẫu 1:

    Đi đường là bài thơ mang nhiều lớp nghĩa. Ta có thể thấy bài thơ đang nói về chuyện đi đường - Bác đang bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Việc đi đường gặp muôn vàn những gian khổ, tuy Bác không nói cụ thể nhưng qua câu thơ: "Đi đường mới biết gian lao" và hình ảnh "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" ta có thể hình dung rõ những trở ngại mà người đi đường phải trải qua. Những trở ngại ấy nếu vượt qua được thì sẽ "Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non" - Người bộ hành giờ trở thành khách du lịch đang đắm say trước khung cảnh thiên nhiên. Bài thơ không chỉ dừng lại ở lớp nghĩa tả thực nêu trên, nói về chuyện đi đường mà còn thể hiện những triết lí sâu sắc. Cuộc đời, con đường cách mạng rất nhiều những gian nan thử thách, nếu có ý chí, có lòng quyết tâm con người sẽ gặt hái được nhiều thành công. Bài thơ rất ngắn nhưng chứa đựng được nhiều ý nghĩa, tư tưởng sâu sắc.

Đoạn văn mẫu 2:

    Đi đường là một bài thơ hay có nhiều lớp nghĩa, nghĩa đen, nghĩa bóng. Bài thơ có ý nghĩa đúc kết về kinh nghiệm, kinh nghiệm đi đường, kinh nghiệm đầu tiên của chặng đường cách mạng. Trong mấy câu thơ đầu, thiên nhiên với những vùng núi non hiểm trở như che lấp con người. Nhưng rồi con người đã chủ động vượt qua thử thách và thở thành nhân vật trung tâm của bức tranh. Đường đời gian khổ, đường cách mạng đầy chông gai, nhưng quyết tâm vượt khó và theo đuổi đến cùng thì rồi cũng có ngày đi tới thành công, giành được chiến thắng.

Đoạn văn mẫu 3:

   Bài thơ "Đi đường" ngắn gọn mà ý thơ mênh mang, gợi cho người đọc nhiều bài học ý nghĩa triết lí sâu sắc. Không đơn giản dừng lại ở việc nói tới chuyện đường đi khó mà hình ảnh núi cao trập trùng còn biểu tượng cho sự khó khăn vất vả trong hành trình cuộc sống và hành trình cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng phải trải qua rất nhiều chông gai thử thách nhưng khi đã nếm đủ những trái đắng đó thì sẽ gặt hái được thành công, sẽ đem lại thắng lợi rực rỡ. Và đường đời cũng thế. Khi con người đã vượt qua thách thức thì sẽ đem lại kết quả xứng đáng, tạo nên những giá trị cao đẹp, bất tử, thiêng liêng.

Bạn có thể lấy một bài ở đây nhé! Đừng quên k cho mình với nha♥

#hoctot#

2 tháng 4 2021

Đi đường là bài thơ mang nhiều lớp nghĩa. Ta có thể thấy bài thơ đang nói về chuyện đi đường - Bác đang bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Việc đi đường gặp muôn vàn những gian khổ, tuy Bác không nói cụ thể nhưng qua câu thơ: "Đi đường mới biết gian lao" và hình ảnh "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" ta có thể hình dung rõ những trở ngại mà người đi đường phải trải qua. Những trở ngại ấy nếu vượt qua được thì sẽ "Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non" - Người bộ hành giờ trở thành khách du lịch đang đắm say trước khung cảnh thiên nhiên. Bài thơ không chỉ dừng lại ở lớp nghĩa tả thực nêu trên, nói về chuyện đi đường mà còn thể hiện những triết lí sâu sắc. Cuộc đời, con đường cách mạng rất nhiều những gian nan thử thách, nếu có ý chí, có lòng quyết tâm con người sẽ gặt hái được nhiều thành công. Bài thơ rất ngắn nhưng chứa đựng được nhiều ý nghĩa, tư tưởng sâu sắc

30 tháng 3 2020

Thế Lữ là người bằng sáng tác của mình đã đưa đến thắng lợi quyết định cho Thơ mới buổi chào đời. Mà nói đến Thế Lữ, người ta nghĩ đến bài Nhớ rừng. Vậy thì, cũng có thể nói rằng, chính Nhớ rừng là tác phẩm quan trọng nhất đã dẹp được những lời bè dỉu xuất phát từ phái “thơ cũ” về cái gọi là “dốt nát”, “ngẩn ngơ”, của “bọn” làm Thơ mới. Và sự ngạo mạn của vị chúa sơn lâm trong Nhớ rừng phải chăng đã dẹp đi những lời dè bỉu kia? Hay nói cách khác, hình tượng con hỗ trong bài thơ chính là hình ảnh tiêu biểu của tác giả và những tâm sự đau đáu một nỗi niềm tiếc nuối.

 Tại sao Nhớ rừng có thể làm được điều đó? Dĩ nhiên là vì nó hay, hoàn hảo về hình thức và điều đặc biệt quan trọng đối với nhiều người thuộc phái “thơ cũ” là nó có “nghĩa lí”. Nhớ rừng không viết về đề tài tình yêu. Bài thơ tràn ngập một không khí bi tráng, có thể gợi nhiều suy nghĩ về thời thế, về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Không phải không có lí khi một số người nghiên cứu đã nhấn mạnh tâm sự yêu nước ở bài thơ (Sự nhấn mạnh ấy hẳn chứa đựng nhiều ý nghĩa vào thời điểm Thơ mới lâm cơn “bĩ cực”). Ra đời trong một bối cảnh lịch sử – xã hội và văn hóa đặc biệt của đất nước, hệ từ vựng gồm những căm hờn, uất hận, cũi sắt, nhục nhằn, tù hãm, sa cơ, tình thương, nỗi nhớ, ngày xưa, ngày thâu, ngàn xưa, giang san, nước non… không phải, không thể được sử dụng một cách vô ý. Nó dễ đụng đến chỗ nhạy cảm của tâm hồn Việt, làm thức dậy những kí ức, là khuấy động những nỗi niềm… Từ bài thơ, ta nghe đồng vọng tiếng thở dài u uất của bao anh hùng thất thế từng “gậm một khối căm hờn”…

 Tuy nhiên, quá cường điệu hay bác bỏ ý nghĩa này của Nhớ rừng đều là việc làm không thỏa đáng. Nếu quá cường điệu, ta buộc phải xem Nhỡ rừng như một hiện tượng đi lạc hệ thống (“hệ thống” những sáng tác của Thế Lữ và của đại đa số các nhà Thơ mới khác) mà điều này thì rất khó được chấp nhận. Nếu bác bỏ, cho rằng bài thơ chỉ thể hiện khát vọng đòi giải phóng cái tôi cá nhân thôi, thì phải lí giải làm sao về cái giọng rất ưa dùng thủ pháp khoa trương, phóng đại, thích tuyệt đối hóa vấn đề, thích dựng lên những tương quan đối lập? Vả chăng, nếu nỗi ám ảnh về thân phận một người dân mất nước vốn tồn tại thực trạng tâm não của hầu hết người Việt Nam, thì vẫn có thể khẳng định: Những quan hệ xã hội mang tính chất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam (dù là quái dị do tương tác với các điều kiện thuộc địa), vẫn chưa thể bộc lộ hết tất cả mặt phi nhân của nó như sau này để khiến cái tôi mới chào đời phải thất vọng não nề, phải chán nản cùng cực, phải kêu lên phẫn uất như con hổ trong bài thơ của Thế Lữ. Ngay trong trường hợp nhà thơ Việt Nam có được trải nghiệm nỗi hoài nghi sâu sắc đối với xã hội tư sản, một cách gián tiếp, thông qua văn học lãng mạn Pháp (vốn không phát triển đồng pha với văn học lãng mạn Việt Nam) thì vấn đề không khác. Như vậy, sự lựa chọn chỉ một trong hai ý nghĩa nói trên vô tinh đã làm mờ bản sẳc của bài thơ, khiến ta không thấy hết đóng góp độc đáo của Thế Lữ. Nhớ rừng, như mọi bài thơ khác, vốn đa tầng, đa nghĩa, có thể gợi nhiều chiều hướng cảm thụ khác nhau. Bài thơ giống như sự kết tinh của hàng loạt mối quan hệ phong phú, phức tạp tồn tại trong xã hội Việt Nam một thuở. Và khi đạt tới giá trị kết tinh ấy, nó dành quyền tồn tại như một thông điệp gửi tới muôn đời, mời gọi một sự “thông diễn” không hạn chế.

 Cái tứ của Nhớ rừng không phải là của riêng Thế Lữ. Ta đã thấy nó hiển hiện ở bài Sư tử trong chuồng của Jean Aicard, thấp thoáng ở bài Chim hải âu của Charles Baudelaire. Nói rộng ra nữa, tứ “nhớ rừng” nằm trong một cái tứ phô quát của thơ lãng mạn; đối lập hiện thực với ước mơ, đối lập cái nhân tạo với cái tự nhiên; thân sống trong hiện thực, hiện tại, trong cái tầm thường, cái nhân tạo thô kệch mà hồn thì bay tới cõi ước mơ, hướng về quá khứ vàng son, khao khát được sống cao thượng, trong sạch giữa thiên nhiên khoáng dã.. Qua cái tứ phô quát đó, ta thấy lộ diện một cái tôi bất hòa với xã hội, bất mãn với chính mình (đúng hơn là với tình trạng phải cảm chịu sống trong cảnh tủ hãm của mình), bất an triền miên với chính nội tâm quá ứ đầy, quá phong phú mà mình trót mang theo như một định mệnh. Xét từ góc độ này, có thể nói Nhớ rừng đúng là một bài thơ lãng mạn, đã cho ta thấy rõ những đặc điểm thi pháp riêng của loại hình thơ này. Tất nhiên, một tứ thơ của thời đại lãng mạn vẫn có thể hợp nhất vào nó những cái tứ đã từng xuất hiện trong lịch sử thi ca. Giữa Nhớ rừng của Thế Lữ và Chim trong lồng của Nguyễn Hữu cầu không phải không có mối liên hệ nào đó.

 Chỉ ra tính phổ quát của tứ thơ ở bài Nhớ rừng không hề làm giảm nét độc đáo trong cách hiện thực hóa tứ thơ của Thế Lữ. Nếu ở bài Sư tử trong chuồng, Jean Aicarrd luôn tạo sự gián cách giữa nhân vật trữ tình và con sư tử, tả con thú không may này như một đối tượng khách quan – đối tượng đưa lại cho anh ta nhiều suy ngẫm về số phận bi đát của của kẻ mất tự do, thì ở bài Nhớ rừng, Thế Lữ (hay đúng hơn là nhân vật trữ tình) đã thực sự hóa thân vào con hổ. Đọc bài thơ, đến lượt độc giả cũng thấy mình bị đồng nhất với hồ, nhập cảm hoàn toàn tâm trạng hỗ đế có thể kêu lên những lời trầm thống, bi thiết. Hẳn nhiên, tiếng kêu đòi tự do, đòi thoát khỏi kiếp sống tầm thường, tù hãm của kẻ đang trải nghiệm thấm thìa nỗi đau bị giam cầm hẳn phải lay động hơn, phải “bật máu” hơn tiếng kêu hộ của một kẻ đồng cảm đứng ngoài. Chính Thế Lữ tự ý thức được hoàn toàn về đặc điểm này của bài thơ, bởi vậy, với tư duy lí tiếp nhận được từ phương Tây, ông phải cẩn thận chú thích dưới nhan đề Nhớ rừng một dòng chữ: Lời con hổ ở vườn Bách thú, ý chừng muốn lưu ý độc giả đừng vì nhập hồn vào bài thơ mả cứ mãi tưởng mình là hổ! Nghịch lí thay, càng làm cái việc phân định rách ròi, Thế Lữ càng cho thấy mức độ đồng nhất cao giữa đối tượng miêu tả và cái tôi trữ tinh! Nếu nói cho chi li, ngoại trừ lời chú thích đã nêu vốn thuộc về phần nhan đề, trong phần “ruột” của bài thơ cũng có một câu – chỉ một câu thôi – là thể hiện cái nhìn gián cách. Đó là câu Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Thoạt đọc, ta vẫn thấy đó là câu “tự tình” của chính con hổ, nhưng đọc kĩ, ta lại nhận ra một ánh nhìn, một quan sát đến từ phía bên ngoài. Còn các câu khác như Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng/ Lượn tấm thân như sóng cuộc nhịp nhàng và Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan bên ngoài xem chừng giống như nét vẽ của nhân vật trữ tình đứng gián cách, kì thực lại là những câu biểu hiện của nhân vật trữ tình vào con hỗ là khá triệt để, và điều đó đã đem lại những hiệu quả tác động lớn không ngờ. Đây hiển nhiên Ịà một nét đặc sắc của bài thơ. Chính nó đã đưa vào bức họa lổng thể về chân dung cái tôi của Thơ mới một nét rắn rỏi, giúp người đọc hiểu rằng cái tôi này không phải chỉ là có dáng dấp ẻo lả, yếu đuối và không phải bao giờ cũng chỉ biết quay lưng lại vấn đề xã hội. Phải mạnh mẽ, tự tin, và nữa phải có “hồn thơ rộng mở” (Các chữ Hoài Thanh) đến độ nào thì mới có thể thống nhất mình với chúa sơn lâm được chứ!

 Như vậy, màu sắc tự biểu hiện của cái tôi trữ tình ở bài thơ là rất đậm. Nhưng không vì thế mà chất tạo hình của Nhớ rừng lại không nỗi bật. Hai đặc điểm này không phải trái mà tương hợp với nhau. Lại vẫn là một nét trội trong thi pháp của loại hình thơ lãng mạn mà ở đó cái tôi trữ tình ưa đối tượng hóa lòng mình được tự ngắm, tự ve vuốt! Trong bốn đoạn của bài thơ Nhớ rừng, đoạn hai là đoạn thể hiện khả năng tạo hình của ngòi bút Thế Lữ rõ nét hơn cả. Câu chữ nỗi gồ lên, khiến hình tượng đập mạnh vào thị giác, thính giác. Những gào, những hét, những thét vừa trùng lặp vừa biến hóa, kích mãi lên một cảm giác mãnh liệt. Cũng thế, những sơn lâm, bóng cả, cây già, lá gai, cỏ sắc, những dõng dạc, đường hoàng, nhịp nhàng, những quắc, tan, chuyển, gội, lênh láng…trông giống như những vạch màu ngắn, liên tiếp, trùng trùng trong tranh Vincent Van Gogh, đưa đến ấn tượng về trạng thái mê man lên đồng của kẻ đang bị vây riết bởi những kí ức hào hùng và của sự sáng tạo. Từ kí ức của con hỗ, tất cả vẻ đẹp man dại, phóng khoáng của chốn nước non hùng vĩ hiện ra mồn một, động cựa, biến đổi không ngừng. Rất ít hoặc hầu như không có những hòa sắc xám nhạt, tan loãng, mơ hồ mà chủ yếu là những màu nguyên đậm đà, tươi tắn, kích thích. Chi tiết ken dày trong đoạn thơ và nói chung là trong cả bài thơ, cho thấy một nhãn thức tạo hình rất khác với nhận thức tạo hình của thơ cỗ điển, của loại hình văn nhân họa vốn thích cái vô ngôn, thích chừa khoảng trống cho sự lắng mình chiêm nghiệm, sự thả hồn phiêu diêu theo những ý niệm huyền hồ. Rõ ràng những điều đó là biểu hiện của một cái tôi muốn chiếm đoạt và chế ngự, muốn choàng cái bóng của minh lên tất cả, muốn toàn quyền áp đặt và phân phối cảm xúc của mình lên thế giới chung quanh, gom thế giới vào ta và biến ta thành tất cả thế giới. Nhưng với Nhớ rừng, Thế Lữ không chỉ tiếp thu thuần thục kiểu tạo hình mới tràn đầy nhiệt hứng của loại hình lãng mạn mà còn rút tỉa được cả những kinh nghiệm nghệ thuật quý báu của phái Thi Sơn (La Parnasse) vốn thích những đường nét mô tả đầy tính điêu khắc với thế giới hữu hình. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được rất rõ cái trương lực được tạo nên bởi cuộc tranh chấp giữa việc buông thả mình theo những cảm xúc say sưa và việc tiết chế chính những cảm xúc đó, không để chúng làm tan loãng khối hình thực có của các đối tượng không được nhắc đến. Xét từ góc độ này, có thể gọi Thế Lữ không phải là một nhà thơ lãng mạn thuần thành theo kiểu Alphonese de Lamartine, Alfred de Musset… Dấu vết ảnh hưởng Leconíe de Lisle không thể nói là không đậm, từ niềm thích thú quan sát những tập tính của động vật đến cách làm nổi bật dáng vẻ uy nghi, bí ẩn của thiên nhiên trong các bài thơ. Nói cụ thể, có lẽ câu thơ Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng đã được Thế Lữ viết ra trong sự ám ảnh của các câu thơ của Leconte de Lisle: Đôi khi một con trăn ngủ, nóng quá, uốn lưng như sóng cuộn, vẩy da lấp lánh dưới ánh mặt trời/ Con voi đầu đàn, đầu như một khối đá, xương sống hình cung, mỗi khi voi bước, lại uốn cong l...

17 tháng 2 2022

 

 Trẻ em trên trái đất đều được bình đẳng, không phân biệt về màu da.

17 tháng 2 2022

Ý nghĩa của bài tập đọc "Bài ca về trái đất" là gì?

 Trẻ em rất thích khám phá điều kì thú ở trái đất.

 Trái đất của chúng ta là một hành tinh trong hệ Mặt Trời.

 Hoa là sự vật thơm nhất, quý giá nhất, đẹp đẽ nhất của trái đất.

 Trẻ em trên trái đất đều được bình đẳng, không phân biệt về màu da.

23 tháng 1 2019

a, Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ có nhiều tầng ý nghĩa:

    + Vầng trăng của thiên nhiên, đất trời

    + Trăng là người tri kỉ gắn bó với con người lúc gian khó

    + Trăng là tình cảm trong sáng, tốt đẹp trong con người, soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, thức tỉnh con người

b, Khổ thơ cuối thể hiện biểu tượng của vầng trăng, chứa đựng tính triết lý

    + Trăng thủy chung, son sắt tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên không thể phai mờ

    + Trăng là nhân chứng nghĩa tình, nghiêm khắc, sự im lặng nhắc nhở nhà thơ và mọi người

    + Con người có thể vô tình lãng quên thiên nhiên tình nghĩa, quá khứ thì trong đầy, bất diệt, hồn hậu, rộng lượng

ko hiểu.???????

"câu chuyện để lại cho tôi nhiều ý nghĩa sâu sắc" vậy sâu sắc cái gì vậy? ghi luôn cái đề ra đây luôn đi