Phần II. Đọc – hiểu văn bản (2,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu
“Ngày xưa, có hai cô cháu ở chung với nhau một nhà. Người cô già, chồng chết từ lâu. Đứa cháu còn bé chừng mười hai tuổi mồ côi cha mẹ. Nhà họ nghèo, chỉ có vài sào ruộng, không đủ sống. Cho nên cô cháu ngày ngày phải đi mò cua bắt ốc hoặc mót hái kiếm ăn. Mấy năm trời được mùa, hai cô cháu tuy không lấy gì làm đầy đủ nhưng cũng sống vui. Ngày ngày cháu theo cô xách giỏ ra đồng, miệng hát có vẻ thích chí.
Nhưng không may vụ hạ năm ấy mất mùa [...] Riêng hai cô cháu sức yếu đành chịu nằm nhà nhịn đói. Cái chết đang dọa nạt họ.
May sao, buổi sáng hôm ấy có người hàng xóm sang báo tin cho cô cháu biết là có mấy đám lúa ở làng bên cạnh đã bắt đầu gặt. Bà cô thấy mình yếu lắm rồi, đứng lên không vững nữa. Chỉ có cháu là hơi tỉnh. Anh chàng gắng ngồi lên. Một người láng giềng đem cho một bát canh rau. Cháu húp vào thấy khỏe cả người, vội đứng lên đi theo họ.
[...] Mãi đến chiều, người cháu mới đem lúa về. Lèo tèo chỉ có một nắm bằng cái chổi xể. Nhưng anh chàng không ngại. Hắn đập, sảy, rang rồi bỏ vào cối giã. Chỉ một lúc sau hắn đã đổ vào nồi bắc lên bếp.
Khi nồi cháo bắt đầu sôi thì người cô bỗng trở mình và rên khừ khừ. Cháu lật đật vào lật chiếu thăm cô. Cô rên rỉ kêu đau bụng, bảo cháu đi xin cho mình một tí gừng. Cháu ngần ngại không muốn đi nhưng thấy cô có vẻ nguy kịch, vội đánh đường vào xóm. Sau khi cháu đi, người cô gắng dậy ngồi vào bếp đun lửa cho nồi cháo. Lúc cháo chín, cô bỏ muối vào nếm thử một hớp. Chất ngũ cốc vào bụng trôi đến đâu, thịt da như sống lại đến đấy. Thấy cháu vẫn chưa về, cô múc ra một bát để dành phần cho cháu rồi lại ngồi ăn. Loáng một cái, cô đã ăn hết phần của mình. Cô lại chõng nằm nhưng trong bụng vẫn thấy thèm. Thấy cháu vẫn chưa về, cô nghĩ: - "Thằng bé có lẽ được người ta cho ăn rồi nên mới lâu thế. Nếu hắn đói thì dù gừng được hay không cũng phải về sớm". Nghĩ vậy, người cô lại lồm cồm dậy ăn xén vào cháo của cháu một tý. Cô đi ra ngoài cửa nhìn. Vẫn không thấy tăm dạng của cháu. -"Chắc nó được ăn rồi còn ngồi lại sưởi. Ta có thể ăn nốt đi cho nó". Nghĩ thế, cô yên tâm lại húp thêm một hớp nữa vào phần của cháu.
Cho đến khi người cháu mang gừng về thì bát cháo chỉ còn một tý nước ở dưới đáy. Cháu hỏi cô. Cô không trả lời. Nhưng cháu cũng đoán được hết. Cháu ôm mặt khóc nức nở. Cháu giận cô, oán cô rồi rủa cô. Được một chốc, cháu bưng bát cháo lại chõng cô nằm, dí sát vào miệng và nói bằng một giọng cay chua:
- Đó còn ít nữa, hít nốt đi! Hít đi cô, hít cô...
Sáng hôm sau, mãi đến trưa vẫn chưa thấy cháu dậy, cô lại gần đưa tay sờ vào người cháu, thì ôi thôi người cháu đã lạnh toát từ bao giờ.
Từ đó trở đi vào khoảng trời khuya, người ta nghe có tiếng chim kêu não nùng trong không gian: "Hít cô! Hít cô!". Tiếng chim kêu một điệu đều đều như nhắc nhở những ngày sống gian khổ của hai cô cháu[1].
(Trích truyện cổ tích Chim hít cô)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính và ngôi kể của đoạn trích trên.
Câu 3. Câu chuyện giải thích nguồn gốc của loài vật nào?
Câu 3. Sự việc người cô ăn hết sạch bát cháo để phần người cháu nói lên điều gì?
Câu 4. Qua câu chuyện, em rút ra cho mình những bài học nào?
Phần III. Làm văn ( 6,0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu cảm nhận của em về một chi tiết trong truyện cổ tích mà em yêu thích.
Câu 1 :
Phương thức biểu đạt chính : Tự sự
Ngôi kể thứ ba
Câu 2 :
Câu chuyện giải thích nguồn gốc của chim hít cô
Câu 3 :
Sự việc người cô ăn hết sạch bát cháo để phần người cháu đã nói lên sự khốn khổ, đói khát đến tận cùng đã khiến người cô trở lên tham lam, vô tâm, vứt bỏ lòng tự trọng của mình mà đã ăn hết để thỏa mãn cơn đói mà không nghĩ đến người cháu - người đang giúp đỡ cô.
Câu 4 :
- Em rút ra cho mình bài học :
+ Cần phải giữ lòng tự trọng dù cho có khốn khó đến thế nào
+ Nên biết quan tâm đến người khác, đừng chỉ vì mình mà mặc kệ người khác
+ Đừng bao giờ phản bội, ăn cháo đá bát với người đã bỏ thời gian và công sức để tìm cách giúp đỡ mình
+ Luôn phải giữ lý trí mọi hoàn cảnh, không được để bản năng và lòng tham chiếm đoạt.
Phần II. Đọc – Hiểu Văn Bản
Câu 1:
Câu 2:
Câu chuyện giải thích nguồn gốc của loài chim "Hít cô" (chim hít cô), loài chim kêu lên tiếng kêu thảm thiết như lời trách móc của người cháu đối với người cô năm xưa.
Câu 3:
Sự việc người cô ăn hết sạch bát cháo để phần người cháu thể hiện:
Câu 4:
Những bài học rút ra từ câu chuyện:
Phần III. Làm Văn
Câu 1: Viết đoạn văn nêu cảm nhận về một chi tiết trong truyện cổ tích mà em yêu thích
Một trong những chi tiết mà em yêu thích nhất trong truyện cổ tích "Tấm Cám" là khi Tấm hóa thành chim vàng anh để tiếp tục ở bên vua. Chi tiết này thể hiện tinh thần kiên cường, không khuất phục của Tấm trước sự độc ác của Cám và dì ghẻ. Dù bị hãm hại nhiều lần, Tấm vẫn tìm cách quay trở lại, biến thành những hình hài khác nhau như chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi,... Cuối cùng, Tấm cũng được trở về làm hoàng hậu. Điều này cho thấy sự công bằng trong cuộc sống, kẻ ác sẽ phải trả giá, người tốt dù gặp khó khăn vẫn sẽ được đền đáp xứng đáng. Đồng thời, chi tiết này cũng giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, huyền bí, thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự bất diệt của cái thiện.
4o