K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tháng 3

Bài văn phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận là một tác phẩm nổi bật trong thơ ca hiện đại Việt Nam, được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, khi đất nước còn nhiều khó khăn và gian khổ. Bài thơ không chỉ thể hiện lòng yêu nước, niềm tin vào tương lai tươi sáng mà còn chứa đựng những tình cảm chân thành, sâu sắc của tác giả đối với thiên nhiên, con người và công cuộc lao động. Huy Cận, một trong những đại diện tiêu biểu của phong trào Thơ mới, đã thể hiện tài năng của mình qua từng câu chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Nhìn chung, "Đoàn thuyền đánh cá" là một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đọc bài thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và con người mà còn hiểu được tinh thần lao động cần cù, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng đất nước.

Thân đoạn:

Khi đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, cảm xúc chung mà người đọc có thể dễ dàng cảm nhận là sự kết hợp tuyệt vời giữa hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tráng lệ và cuộc sống lao động của con người. Những vần thơ của Huy Cận không chỉ miêu tả một cách sinh động công việc đánh cá mà còn thể hiện được tâm hồn yêu đời, lạc quan của con người lao động. Bài thơ mở ra với hình ảnh "Mặt trời xuống biển như hòn lửa", một hình ảnh vừa có vẻ đẹp kỳ ảo, vừa hàm chứa sức mạnh tiềm tàng. Câu thơ này làm nổi bật lên không gian bao la, vũ trụ của biển cả, một không gian mà con người là những người lao động cần cù, không ngừng sáng tạo. Hình ảnh mặt trời trong bài thơ chính là biểu tượng của sức sống, của khát vọng vươn lên.

Không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, Huy Cận còn sử dụng những hình ảnh tượng trưng đặc sắc để làm nổi bật tinh thần lao động của con người. Đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ không phải là một nhóm người làm việc đơn giản mà là những người chiến sĩ trên mặt trận lao động, "đánh thức dậy" những giấc mơ và hy vọng. Mỗi câu thơ của tác giả đều mang đậm âm hưởng của tiếng động từ công việc đánh cá, như câu "Đoàn thuyền đánh cá" được lặp lại với nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, thể hiện sự quyết tâm và sức mạnh của người lao động.

Huy Cận cũng không quên sử dụng những biện pháp tu từ đặc sắc để làm nổi bật lên vẻ đẹp của công việc lao động và thiên nhiên. Chẳng hạn, hình ảnh "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" không chỉ tạo ra sự tươi sáng, mà còn làm tăng vẻ đẹp sinh động của cảnh biển lúc hoàng hôn. Sử dụng biện pháp ẩn dụ với "hòn lửa" là một sự so sánh độc đáo, thể hiện sự mạnh mẽ và nhiệt huyết của những người lao động. Câu "Câu hát căng buồm với gió khơi" sử dụng biện pháp nhân hóa, "căng buồm" làm cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên sống động, như có linh hồn và có sự chuyển động, đồng thời cũng biểu trưng cho sức sống mãnh liệt của công cuộc lao động.

Ngoài ra, tác giả còn khéo léo sử dụng phép đối và đối thoại trong các câu thơ, ví dụ như trong "Câu hát căng buồm với gió khơi", không chỉ làm tăng tính nhịp điệu mà còn thể hiện sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Biện pháp này làm cho bài thơ có nhịp điệu nhẹ nhàng, vừa tươi mới vừa hùng tráng, gợi cho người đọc cảm giác như đang sống trong chính không gian của những con thuyền đánh cá, hòa mình vào không gian biển cả bao la và rộng lớn.

Kết đoạn:

Tóm lại, “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm đẹp về nghệ thuật và phong cách thơ của Huy Cận. Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện sự tôn vinh cuộc sống lao động, niềm vui và hy vọng trong công việc của những người đánh cá. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, sự mạnh mẽ của thiên nhiên, sự dẻo dai của con người lao động được khắc họa rõ nét qua từng câu chữ, từ đó tạo nên một không khí hào hùng và phấn chấn. Đối với bản thân tôi, bài thơ này không chỉ giúp tôi cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn giúp tôi hiểu thêm về ý nghĩa của lao động trong đời sống. Qua đó, bài thơ còn giúp tôi nhận ra rằng, dù có khó khăn đến đâu, lao động vẫn là con đường mang lại giá trị bền vững và sự no ấm cho con người. Thực sự, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ vô cùng sâu sắc, có ý nghĩa đối với mỗi người trong chúng ta, nhất là những ai đang sống trong công cuộc lao động và xây dựng đất nước.

4 tháng 7 2019

+ Các văn bản thơ trong các bài 15, 16 đều thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đây là thể thơ điển hình về niêm luật, đối ý, vần, tính quy phạm, các quy tắc về cách gieo vần rất chặt chẽ.

   + Cái độc đáo của thơ Đương luật là dồn nén biểu cảm, đạt tới độ cô đọng và trở thành tính khái quát, triết lí. Thơ Đường gợi chứ không tả, và thường tạo ra những khoảng trống, khoảng lặng trong kết cấu.

   + Các tác phẩm trong bài 18, 19 đều là thơ hiện đại với những cây bút đầu tiên mở đường khai phóng cho "Thơ Mới".

   + Thơ Mới là trào lưu sáng tác phá vỡ tính cổ điển, giải phóng thơ triệt để khỏi quy tắc các phép tu từ, thanh vận chặt chẽ truyền thống, thậm chí có sự xuất hiện và phát triển mạnh của thể loại thơ tự do, thơ không vần…

   + Số lượng câu không bị giới hạn như những bài thơ truyền thống, ngôn ngữ hằng ngày được đưa vào thành ngôn ngữ nghệ thuật.

   + Nội dung đa diện, phức tạp, thường không bị gò ép. Thơ mới chịu ảnh hưởng của các trào lưu, khuynh hướng trong thơ ca phương Tây như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa ấn tượng…

27 tháng 5 2019

Chọn đáp án: A.

11 tháng 6 2019

Đáp án cần chọn là: A  

2 tháng 2 2021

đúng

24 tháng 1 2022

tham khảo

Nếu Thế Lữ được coi là người mở đường thành công cho Thơ mới thì bài thơ "Nhớ rừng" của ông chính là tác phẩm dành cho Thơ mới sự thắng lợi hoàn toàn. Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ, có ý kiến cho rằng: “Đằng sau sự hồi tưởng về một quá khứ huy hoàng của con hổ ta còn thấy tâm trạng nuối tiếc đầy bất lực cùng một khát vọng tự do tha thiết. Và tất cả những điều đó đã được thể hiện bằng một ngòi bút thật tài hoa”.

Đoạn thơ sau trong bài thơ đã thể hiện rõ điều ấy:

 

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

(Nhớ rừng – Thế Lữ)

"Nhớ rừng" ra đời trong những năm tháng nước nhà bị tù túng trong cảnh xiềng xích nô lệ. Mỗi người dân Việt Nam chân chính đều không khỏi cảm thấy ngột ngạt, bức bối… Một buổi trưa hè, khi Thế Lữ đang chậm chạp nện gót trên đường về, ông đi qua vườn bách thú bất chợt nhìn thấy vị chúa sơn lâm – con hổ đang ngồi trong lồng. Nhà thơ chạnh lòng nghĩ đến thân phận người dân nô lệ. Cảm xúc ấy đã khiến ông viết nên bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thơ trên là khổ thơ thứ ba trong bài, tái hiện những ngày tháng oai hùng của hổ giữa chốn rừng xanh dữ dội, hùng vĩ. Đó đồng thời là một bức tranh tứ bình tuyệt bút.

"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
a say mồi đứng uống ánh trăng tan?"

Buổi đêm là khoảng thời gian con hổ nhắc đến đầu tiên có lẽ bởi đó là thời khắc nó tung hoành chốn sơn lâm "bóng cả cây già". Gọi đó là "đêm vàng" bởi đêm trong vắt, ánh trăng tràn khắp nơi nơi. Không chỉ vậy, đó còn là ánh trăng chiếu rọi xuống lòng suối, ánh sáng phản chiếu khiến mặt suối bừng lên sắc vàng huy hoàng lộng lẫy. Nổi bật giữa"cảnh tượng kì vĩ ấy là hình ảnh con hổ "say mồi đứng uống ánh trăng tan" như một vị vua đang say men chiến thắng. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "uống ánh trăng tan" khiến ánh trăng thêm phần huy hoàng, ánh trăng giống như dòng ánh sáng tuôn xuống rừng đêm kì ảo vậy.

Trong nỗi nhớ của hổ có cả:

"Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?"

Cơn mưa rừng dữ dội tạo nên những âm thanh vang động, ào ạt. Nó khiến muôn loài hoảng loạn trốn tránh, nín thở. Nhưng với hổ thì ngược lại, hổ lấy tư thế của một vị chúa sơn lâm để bình thản "ngắm giang san ta đổi mới". Từ "lặng ngắm" khiến hình ảnh hổ trở thành nốt nhạc trầm tĩnh trọng bản hoà ca hùng tráng của cơn mưa rừng. Hổ đang lấy cái tĩnh của bản thân để chế ngự cái động dữ dội của đại ngàn. Sau những ngày mưa, bình minh rừng trở nên trong trẻo hơn bao giờ hết:

 

"Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?"

Thời khắc bình minh là lúc vạn vật bắt đầu ngày mới nhưng đó cũng là khi hổ bắt đầu giấc ngủ của mình sau bữa ăn đêm dữ dội. Cái xôn xao, rạo rực của vạn vật khi ngày mới bắt đầu, với hổ, đó lại là bản nhạc du dương đưa nó vào giấc ngủ. Hình ảnh của hổ oai hùng nhất, kì vĩ nhất được thể hiện trong ba câu thơ:

"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?"

Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời khuất dạng phía tây để lại trần gian sắc đỏ gay gắt, rực rỡ. Nhưng với hổ, đó lại là máu của kẻ thù lênh láng nơi bìa rừng sau trận đấu tàn khốc. Quả thực, thời điểm mặt trời khuất rạng cũng là khi hổ bắt đầu ngày lao động của mình. Đêm tối lạ lẫm và đầy sợ hãi kia thuộc hoàn toàn về nó. Và dưới mắt hổ, mặt trời - ông hoàng bất tử của vũ trụ cũng chỉ là kẻ bại trận thê thảm với cái chết thảm khốc "lênh láng máu sau rừng", "để ta chiếm lấy riêng phần bí mật".

Nhưng quá khứ vẫn chỉ là quá khứ. Bừng tỉnh khỏi những vinh quang chói lọi của ngày qua, trở về với thực tại tù túng, hổ ai oán thốt lên:

- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!

Những điệp từ "nào đâu…", "đâu…" thể hiện nỗi tiếc nuối khôn nguôi của hổ về quá khứ vinh quang, oai hùng. Đặc biệt, thán từ "than ôi!" cùng lời than "Thời oanh liệt nay còn đâu" còn là nỗi xót xa đau đớn của hổ khi phải đối diện với thực tại tầm thường giả dối nơi vườn bách thú tù túng này.

Khổ thơ trích dẫn trong bài là một khổ thơ đầy màu sắc huy hoàng, hình ảnh kì vĩ, nó chẳng những thể hiện tâm trạng nuối tiếc đầy bất lực của hổ mà còn bộc lộ khát vọng tự do tha thiết. Tất cả những điều đó đã được thể hiện bằng một ngòi bút thật tài hoa.

24 tháng 1 2022

Tham Khảo 

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nêu phạm vi dẫn chứng

II. Thân bài

1. Khái quát chung

 - Hoàn cảnh sáng tác

 - Vị trí, nội dung đoạn trích: bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy

2. Phân tích

- Đêm vàng- trăng tan trong suối trắng

- Ngày mưa chuyển 4 phương ngàn- lặng ngắm giang san đổi mới

- Bình minh cây xanh nắng gội- chan hòa, anh sáng, rộn rã tiếng chim hót ru giấc ngủ cho chúa sơn lâm

- Hoàng hôn đỏ máu, mảnh mặt trời đang chết- chiếm lấy riênng phần bí mật

=> Cảnh nào của núi rừng cũng mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng

      Con hổ nổi bật tư thế lẫm liệt, kiêu hùng, của chúa sơn lâm đầy uy lực

=> Đó chỉ là quá khứ huy hoàng hiện ra khôn nguôi

-> Sử dụng 1 loạt điệp ngữ: đâu, nào đâu

-> Khép lại tỏng tiếng than u uất

- Tâm sự yêu nước kín đáo của tác giả

3. Đánh giá chung

 -Nội dung, nghệ thuật 

(   Chọn một biểu tượng rất đắt là con hổ ở vườn bách thú, khai thác triệt để thủ pháp nhân hoá, Thế Lữ đã thể hiện sâu sắc và xúc động chủ đề tác phẩm. Tâm sự của vị chú tể rừng xanh cũng chính là tâm sự của con người, một trang anh hùng sa cơ mang tâm sự u uất, khát khao tự do mãnh liệt, khát khao vươn tới cái cao cả, vĩ đại trong cuộc đời.Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, đầy ấn tượng phù hợp với đối tượng miêu tả và gợi ở người đọc những cảm xúc mãnh liệt.Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm, giàu tính sáng tạo; câu thơ co duỗi thoải mái... Nhớ rừng đã thể hiện một đặc điểm của thơ mới đương thời là: tạo lại dáng cho câu thơ tiếng Việt.)

27 tháng 10 2023

Help pls

21 tháng 3 2018

Đáp án

Chép nguyên văn bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh. Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ (2đ).

- Nguyên văn:

      Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

      Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

      Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

      Cuộc đời cách mạng thật là sang. (1đ)

   - Nội dung: bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng còn đầy gian khổ. (0.5đ)

   - Nghệ thuật: thể thơ tứ tuyệt, giọng điệu lạc quan, tươi vui, ngôn ngữ dể hiểu, hình ảnh chân thực đời thường. (0.5đ)

11 tháng 1 2023

1/ Mở bài: - Giới thiệu vấn đề: “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.” - Chọn tác phẩm phân tích. 2/ Thân bài: 2.1. Giải thích nhận định: - Nghệ thuật chỉ phạm trù lớn, bao gồm cả văn học và các ngành nghệ thuật khác. - Sự vươn tới, sự hướng về...tính người: Muốn nói tới sự khám phá, phản ánh vẻ đẹp nhân bản, nhân văn của nghệ thuật chân chính. - “Nghệ thuật là… sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”, đó là vai trò cảm hóa, tác động tích cực, chức năng bồi bổ tâm hồn con người của văn học nghệ thuật. - Tóm lại, ý kiến của Nguyên Ngọc muốn đề cao nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng: luôn mang thiên chức cao cả là phản ánh, ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của con người và vì thế, văn học nghệ thuật đảm nhận chức năng nhân đạo hoá con người, giúp con người hoàn thiện hơn. 2.2. Chọn hai trong bốn tác phẩm để phân tích: Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương). * Cơ sở lí luận: + Ý kiến đúng đắn, có sở từ lí luận về bản chất của nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng vươn tới các giá trị: chân, thiện, mĩ - phục vụ cho những nhu cầu chính đáng của con người… + Văn học nghệ thuật vừa là sản phẩm phản ánh đời sống một cách khách quan vừa là một hình thức biểu hiện tư tưởng tình cảm chủ quan, cũng là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người. Nó có nhiều chức năng trong đó có chức năng nhận thức và quan trọng hơn cả là chức năng giáo dục, nhân đạo hoá con người… + Là sản phẩm tinh thần của con người, do con người tạo ra để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống nhất là đời sống tâm hồn, văn học chỉ thực sự có giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca, bảo vệcon người. Vì vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo bao giờ cũng là vấn đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính… + Tác phẩm văn học thể hiện tính nhân văn và tinh thần nhân đạo qua nhiều phương diện: phê phán, tố cáo tội ác của những thế lực đã chà đạp quyền sống con người, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, thấu hiểu, cảm thông tâm tư tình cảm, nguyện vọng ước mơ của con người giúp con người bày tỏ ước nguyện… Sự đa dạng này tuỳ thuộc ở cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, phương pháp sáng tác của nghệ sĩ… * Cơ sở thực tiễn – qua hai tác phẩm vừa chọn: - Trình bày sơ lược nội dung tư tưởng nhân văn, vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam qua hai tác phẩm ấy. Chỉ ra được điểm tương đồng, sự đồng điệu giữa các nhà thơ trong cách khám phá và cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn con người. Học sinh phải phân tích làm rõ được cách thể hiện độc đáo của các nhà thơ trong việc phản ánh, níu giữ tính người cho con người qua tác phẩm của họ. - Những tư tưởng trong tác phẩm của các nhà thơ có gì khác biệt nhau: tư tưởng, tình cảm mà mỗi nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm của mình; những biện pháp nghệ thuật độc đáo trong việc truyền tải nội dung tư tưởng nhân văn, tình cảm của con người Việt Nam. * Khái quát, đánh giá vấn đề bàn luận. (Trong cả hai tác phẩm, thí sinh cần phân tích được các dẫn chứng tiêu biểu, bình luận bám sát nhận định) 2.3. Mở rộng, nâng cao vấn đề: - Ý kiến của Nguyên Ngọc trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính; Đòi hỏi nhà văn phải có tầm nhìn sâu rộng, có tư tưởng nhân văn, nhân đạo… - Quan điểm này cũng trở thành tiêu chí đánh giá văn học nghệ thuật đối với bạn đọc… Nguyên Ngọc đã góp phần khẳng định giá trị lớn lao, phong phú của văn học nghệ thuật đối với đời sống nhân sinh, đặc biệt là thiên chức cao cả: thanh lọc tâm hồn, nhân đạo hóa con người… 3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề qua 2 tác phẩm đã phân tích.