Đã xem và học bài!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tham khảo!
Nếu như trong các thế kỉ trước chủ nghĩa yêu nước là đề tài chiếm đa phần các sáng tác thì sang đến thế kỉ XVIII, ngòi bút của các tác giả trung đại tập trung về giá trị nhân đạo, với lòng cảm thương sâu sắc số phận của người phụ nữ. Họ - những người phụ nữ hội tụ đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh nhưng lại phải chịu số phận hết sức đắng cay. Đó là nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ, người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Mỗi nhân vật trữ tình mang một nét riêng, nhưng ở họ đều là hình ảnh tiêu biểu nhất cho số phận cũng như vẻ đẹp người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
Trước hết họ là những người phụ nữ có vẻ đẹp ngoại hình, họ đều là những người phụ nữ xinh đẹp. Là vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi, đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Còn Vũ Nương chỉ được khái quát bằng câu văn rất ngắn: “tính đã thùy mị, nết na lại thêm phần tư dung tốt đẹp”. còn nàng Kiều, được Nguyễn Du ưu ái hơn cả, ông dùng những lời thơ đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nàng:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Nguyễn Du đã lấy những hình ảnh đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả nàng Kiều, đó là đôi lông mày lá liễu như dáng núi mùa xuân, là đôi mắt có hồn, ẩn chứa trong đó là cả thế giới nội tâm đa dạng, phong phú.
Những người con gái ấy không chỉ là đẹp người mà họ còn đẹp nết, đẹp về tâm hồn tính cách. Nàng Vũ Nương đoan trang, hiền thục, nết na đã khiến cho Trương Sinh cảm mến về đức hạnh mà dùng trăm lạng vàng để lấy nàng về. Khi về làm dâu, nàng biết chồng có tính hay ghen và phòng ngừa quá sức nên luôn giữ gìn khuôn phép, đúng mực trong cách hành xử để hai vợ chồng không rơi vào cảnh bất hòa. Không chỉ vậy nàng còn là một người con dâu hiếu thảo, mẹ chồng luôn được nàng chăm sóc hết mực, khi bà ốm đau nàng thường dùng những lời nhẹ nhàng khuyên lơn để mẹ cố gắng ăn cháo, uống thuốc. Có mấy ai tạo được mối quan hệ mẹ chồng, nàng dâu tốt đẹp đến thế. Đến khi mẹ chồng chết nàng cũng lo tang ma chu toàn. Hơn thế, nàng còn là một người phụ nữ hết sức đảm đang. Chồng đi ra trận, nàng ở nhà một mình nuôi con, quán xuyến công việc gia đình một cách toàn vẹn nhất. Để con không phải chịu thiếu thốn tình cha, nàng còn tự chỉ vào bóng mình, để bé Đản được sống trọn vẹn trong tình yêu thương của cha mẹ. Có thể thấy Vũ Nương là hiện thân đầy đủ nhất của vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.
Nàng Kiều lại mang trong mình vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn rất đỗi nhạy cảm. Tài năng của nàng đủ cầm – kì - thi – họa, tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất sắc. Nhưng nổi bật nhất chính là tài đàn, những bản đàn của nàng làm say đắm biết bao người. Cung đàn bạc mệnh ấy vừa cho thấy tâm hồn nhạy cảm, vừa như một dự báo cho số phận tương lai của chính nàng. Không chỉ vậy, trong lúc gia đình gặp nguy biến, nàng đã sẵn sang xả thân bán mình chuộc cha và em:
Rẽ để cho thiếp bán mình chuộc cha
Và ngay cả những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích nàng vẫn không thôi lo nghĩ cho cha mẹ, tuổi cao sức yếu không có ai chăm sóc: “Xót người tựa cửa hôm mai/ Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ/ Sân Lai biết mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”. Trong trường hợp của Kiều, nàng là người đau khổ nhất, nhưng gạt đi nỗi đau cá nhân, Kiều vẫn một lòng nghĩ về những người thân yêu của mình. Đó là biểu hiện của trái tim nhân hậu, vị tha, bao dung cao cả.
Mặc dù, hội tụ đầy đủ vẻ đẹp về hình thức và tâm hồn, những tưởng những người phụ nữ ấy sẽ được hưởng cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng không, cả cuộc đời họ là những chuỗi tai ương nối tiếp nhau,. Quả đúng như Nguyễn Du đã từng tổng kết: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Người con gái trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương dù có vẻ đẹp tròn trịa tràn đầy sức sống, có tâm hồn thủy chung, son sắt nhưng cuộc đời lại lênh đênh, phụ thuộc:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Số phận của nàng Vũ Nương cũng chẳng khác gì cô gái kia. Lấy Trương Sinh không phải vì tình yêu, hơn thế lại có sự phân biệt về đẳng cấp. Ngay từ đầu đã báo hiệu một cuộc hôn nhân không lấy gì làm viên mãn. Khi nàng lấy chồng chưa bao lâu, chưa thỏa tình gối chăn thì chồng nàng bị gọi ra trận. Nàng sống thiếu thốn tình yêu thương lại phải một mình cáng đáng gia đình, nuôi con khôn lớn, chăm mẹ chồng già yếu. Nhưng tất cả nỗi đau về thể xác đó không đau đớn bằng việc Trương Sinh rũ bỏ, vu cho nàng cái tội mà nàng không có. Bị chồng nghi ngờ thất tiết, Vũ Nương đau đớn khôn cùng, và tận cùng của nỗi đau nàng đã lấy cái chết để giải thoát mình và chứng minh sự trong sạch của bản thân. Nàng chết đi, được Linh Phi cứu, sống cuộc đời bất tử song vẫn đầy bất hạnh, bởi tâm hồn nàng vẫn luôn hướng về ngôi nhà nhỏ, nơi có chồng và con nàng. Sống những chuỗi ngày dài, nhớ về quê hương, chẳng phải còn đáng thương hơn gấp bội đó sao.
Số phận nàng Kiều cũng bất hạnh không kém, sau khi bán mình chuộc cha, cuộc đời nàng bước vào mười lăm năm nổi lên, sóng gió. Ngày Mã Giám Sinh đến “Đắn đo cân sắc cân tài” ngã giá, lòng nàng đau như thắt lại “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”. Những giọt nước mắt tủi cho thân phận bọt bèo của chính mình. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong cảnh cô đơn, lặng lẽ, nàng nhớ về Kim Trọng – mối tình đầu trong trắng và đau đớn khi đã phụ bạc chàng. Nàng nhớ về cha mẹ, xót thương vì không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. Và đặc biệt là dự cảm của nàng về số phận của mình khi ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông của bể chiều hôm/.../ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Bức tranh khung cảnh dữ dội, gào thét như báo hiệu trước cuộc đời đầy sóng gió của nàng.
Bằng tất cả tình yêu thương và lòng trân trọng, các tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng ẩn sau đó còn cho thấy số phận đầy sóng gió bất hạnh. Các tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng, cướp đoạt hạnh phúc của họ; đồng thời cũng là tiếng nói nhân đạo, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với người phụ nữ.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
- Các vấn đề khoa học viễn tưởng được nêu trong những văn bản đọc hiểu ở Bài 3 đến nay đã trở thành hiện thực: đó là tàu ngầm hiện đại; con người đã tìm ra nguyên nhân làm gỉ sắt/thép và nghiên cứu các sản phẩm chống gỉ và con người chinh phục thành công các vì Sao trên Trái Đất.
- Bài viết ngắn: “Khoa học đã biến những điều không thể thành có thể"
Khoa học là hệ thống kiến thức về những định luật, cấu trúc và cách vận hành của thế giới tự nhiên được đúc kết thông qua việc quan sát, mô tả, đo đạc, thực nghiệm, phát triển lí thuyết bằng các phương pháp khoa học. Các thành tựu khoa học mà chúng ta sử dụng hiện nay phải trải qua một quá trình và khoa học minh chứng một chân lí “khoa học đã biến những điều không thể thành có thể". Tại sao lại khẳng định như vậy thì mời các bạn theo dõi bài viết về sự phát triển của máy tính – một vật dụng gắn bó mật thiết với đời sống con người thời đại 4.0.
Ngọn nguồn từ thực tế.
Những năm cuối thế kỉ XIX, dân số ở Hoa Kì đã tăng vọt nhanh chóng, để điều tra dân số Hoa Kì phải mất 7 năm để hoàn thành. Vậy bài toán đặt ra cho Hoa Kì trong các cuộc điều tra dân số làm thế nào để điều tra nhanh, gọn và có hiệu quả. Từ vấn đề bức thiết đó, Chính phủ Hoa Kì đã tạo ra các máy tính dựa trên thẻ gỗ đục lỗ để tự động dệt các thiết kế vải. Có nghĩa là máy tính ra đời dựa trên những vấn đề bức thiết của cuộc sống.
Động lực phát triển
Cỗ máy đầu tiên ra đời đã có sự thuận lợi hơn nhưng vẫn còn những hạn chế, nó cồng kềnh chiếm diện tích cả căn phòng. Mơ ước một cỗ máy hoạt động nhỏ gọn, tính toán nhanh đã thúc thẩy các nhà khoa học nghiên cứu không ngừng nghỉ trên toàn thế giới. Năm 1936: Alan Turing trình bày khái niệm về một cỗ máy vạn năng, sau này được gọi là máy Turing, có khả năng tính toán bất cứ thứ gì có thể tính toán được. Khái niệm cốt lõi của máy tính hiện đại dựa trên ý tưởng này của ông. Sau đó 1 năm J.V. Atanasoff, giáo sư vật lý và toán học tại Đại học bang Iowa, cố gắng chế tạo chiếc máy tính đầu tiên không có bánh răng, dây đai hoặc trục. Và đến năm 1941: Atanasoff và sinh viên của ông, đã thiết kế một máy tính có thể giải quyết 29 phương trình đồng thời. Điều này đánh dấu sự kiện lần đầu tiên một máy tính có thể lưu trữ thông tin trên bộ nhớ chính của nó. Năm 1943 - 1944: Hai giáo sư John Mauchly và J. Presper Eckert, đã xây dựng máy tính Electronic Numerical Integrator and Calculator (ENIAC). Được coi là “ông nội” của máy tính kỹ thuật số hiện đại, thân hình đồ sộ của nó chiếm hết một căn phòng với diện tích 6x12m, gồm 40 kệ cao 2,4m và có 18.000 ống chân không. Nó có khả năng xử lý 5.000 phép tính/một giây và hoạt động nhanh hơn bất cứ thiết bị nào trước đó. Năm 1958: Jack Kilby và Robert Noyce công khai mạch tích hợp, được gọi là chip máy tính. Kilby đã được trao giải thưởng Nobel Vật lý năm 2000 cho công trình của mình.
Như vậy xuất phát từ thực tế và nhu cầu của con người, từ những cỗ máy cồng kềnh khổng lồ sử dụng thẻ gỗ, con người đã sáng chế ra chiếc máy tính cơ sử dụng tính toán linh hoạt tạo nên bước nhảy vọt của ngành khoa học máy tính, tạo nền tảng cho phát triển máy cảm ứng về sau.
Động lực và nền tảng để phát triển bền vững
Nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở tính toán mà còn để vui chơi, giải trí; nhu cầu về một chiếc máy nhỏ gọn, thông minh và đa chức năng là động lực cho ngành khoa học máy tính phát triển. Năm 1983: Hewlett-Packard 150 ra đời, đại diện cho bước đi đầu tiên trong việc mở rộng công nghệ hiện nay. HP 150 là chiếc máy tính đầu tiên được thương mại hóa với công nghệ màn hình cảm ứng. Màn hình cảm ứng 9-inch của sản phẩm được trang bị các bộ thu và phát hồng ngoại ở xunh quanh để phát hiện vị trí ngón tay của người dùng. Nhận thức đúng đã thúc đẩy sự hình thành và triển khai các công trình nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, gắn kết nghiên cứu với ứng dụng thực tiễn trong hoạt động sản xuất máy tính, hàng loạt các thương hiệu ra đời đáp ứng nhu cầu của người dùng: HP, DELL, APPLE…
Sự ra đời của máy tính đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của xã hội. Không thể phủ nhận rằng, chính nhờ máy tính mà công việc, cuộc sống của con người ngày càng dễ dàng hơn. Lĩnh vực sản xuất máy tính vẫn còn rất phát triển. Tương lai chắc chắn sẽ còn nhiều sản phẩm với nhiều tính năng ưu việt hơn nữa ra đời. Sự ra đời và phát triển của máy tính alf một minh chứng tiêu biểu cho khẳng định “khoa học đã biến những điều không thể thành có thể".
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
- Cách nhìn hạn hẹp của nhân vật con ếch và các ông thầy bói đã mang lại hậu quả không mấy tốt đẹp:
+ Con ếch thì bị trâu đi qua dẫm bẹp.
+ Các ông thầy bói thì tranh cãi kịch liệt, đánh nhau toác đầu chảy máu.
- Bài học rút ra từ hai truyện: Cần cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không được chủ quan mà nên khiêm tốn học hỏi, nâng cao kiến thức, trình độ của bản thân.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn và những hiểu biết về Nguyễn Trãi trong các bài đã học để đọc bài Bảo kính cảnh giới (Bài 43).
Một số chú ý quan trọng về Nguyễn Trãi các em cần nhớ:
+ Nguyễn Trãi Sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), sau dời về làng Ngọc Ổi, xã Sơn Nam Thượng, huyện Thượng Phúc, lộ Đông Đô (nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội).
+ Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, hai cha con ông đều ra làm quan nhà Hồ. Năm 1406, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc. Tương truyền, Nguyễn Trãi để giữ trọn đạo hiếu định đi cùng cha, nhưng nghe lời cha dặn, ông đã quay về tìm đường cứu nước.
+ Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, dâng Bình Ngô sách (Kế sách đánh đuổi quân Minh), củng Lê Lợi và các tướng lĩnh bàn bạc việc quân, vạch ra đường lối chiến lược của cuộc khởi nghĩa
+ Sau ngày hoà bình lập lại, Nguyễn Trãi đem hết tâm huyết, tài năng, sức lực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, do những mâu thuẫn nội bộ của triều đình phong kiến, do bọn quyền thân, gian thân lộng hành, Nguyễn Trãi không còn được tin dùng như trước. Ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn nhưng rồi lại hăm hở ra giúp đời, giúp nước khi được vua Lê Thái Tông trọng dụng.
+ Giữa lúc Nguyễn Trãi đang giữ trọng trách công việc quốc gia thì năm 1442 xảy ra vụ án Lệ Chi viên (Trại Vải ở Gia Lương, Bắc Ninh) đầy oan khốc khiến ông bị khép tội “tru di tam tộc” (giết cả ba họ).
+ Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn của ông. Năm 1980, nhân Kỉ niệm 600 năm sinh của ông, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) đã vinh danh Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá kiệt xuất.
+ Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc về tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học,...
- Bảo kính cảnh giới (Bài 43) là bài thơ Nôm Đường luật viết theo thể thất ngôn xen lục ngôn của Nguyễn Trãi trong tập thơ Quốc âm thi tập, mục Bảo kính cảnh giới (Gương báu khuyên răn).
- Đọc trước bài thơ, tìm hiểu kĩ các chú thích để hiểu rõ các từ Việt cổ.
+ Ví dụ: Tiễn là đầy, thừa; hồng liên là sen hồng; tịch dương là nắng chiều; …
Olm chào em, chúc mừng em đã hoàn thành xuất sắc bài học trên Olm. Cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm, em nhé!