K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:                Giới sắc                       - Nguyễn Trãi -       Sắc là giặc, đam làm chi,      Khuở(1) trọng còn phòng(2) có khuở suy(3).      Trụ(4) trật quốc gia vì Đát Kỷ,      Ngô(5) lìa thiên hạ bởi Tây Thi.      Bại tan gia thất đời từng thấy,      Tổn hại tinh thần sự ích chi!      Phu phụ(6) đạo thường...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:

               Giới sắc 

                     - Nguyễn Trãi - 

     Sắc là giặc, đam làm chi,

     Khuở(1) trọng còn phòng(2) có khuở suy(3).

     Trụ(4) trật quốc gia vì Đát Kỷ,

     Ngô(5) lìa thiên hạ bởi Tây Thi.

     Bại tan gia thất đời từng thấy,

     Tổn hại tinh thần sự ích chi!

     Phu phụ(6) đạo thường chăng được trớ(7),

     Nối tông hòa phải một đôi khi.

                                  (Trích Nguyễn Trãi quốc âm từ điển)

Chú thích: 

(1) Khuở: Đồng nghĩa với khi, lúc, thời.

(2) Phòng: Dự tính trước mà phòng bị cách ứng phó.

(3) Suy: Giảm sút.

(4) Trụ: Tức Đế Tân, là vị vua cuối cùng đời nhà Thương của Trung Quốc, nổi tiếng là một ông vua tàn ác. Ông mê Đát Kỷ, ngày ngày cùng Đát Kỷ hưởng lạc, vui chơi, cho xây dựng nhiều chốn ăn chơi xa hoa. Chính vì sự tàn bạo và mê muội sắc đẹp mà ông đã để mất nước vào tay nhà Chu.

(5) Ngô: Ngô vương Phù Sai, là vị vua thứ 25 của nước Ngô thời Đông Chu. Ông cũng vì mê mẩn sắc đẹp của Tây Thi nên rơi vào cảnh mất nước.

(6) Phu phụ: Mối quan hệ vợ chồng.

(7) Trớ: Sai, trái, làm sai.

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. Chủ đề của bài thơ này là gì? 

Câu 3. Phân tích tác dụng việc sử dụng điển tích, điển cố trong văn bản.

Câu 4. Nội dung của văn bản này là gì?

Câu 5. Qua bài thơ, em rút ra được bài học gì cho bản thân?

0
31 tháng 8 2023

Phương pháp giải:

- Đọc lại các văn bản được nêu ra trong đề bài.

- Chú ý những nét đặc sắc, nổi bật của từng bài.

Lời giải chi tiết:

a. Một số đặc điểm chính của văn chính luận Nguyễn Trãi qua Bình Ngô đại cáo, Thư lại dụ Vương Thông:

- Có mục đích và đối tượng hướng đến rõ ràng.

- Lí lẽ và bằng chứng chặt chẽ, thuyết phục.

- Sử dụng đan xen các yếu tố tự sự, biểu cảm.

- Thể hiện hiện tư tưởng nhân nghĩa.

- Vừa đảm bảo yếu tố về lí và tình, vừa có sức thuyết phục.

b. Một số nét đặc sắc của thơ Nguyễn Trãi qua Bảo kính cảnh giới - bài 43, Dục Thúy sơn:

- Có sáng tạo trong thể thơ Nôm Đường luật.

- Đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt.

- Hình ảnh thiên nhiên nên thơ, giàu màu sắc, đường nét, âm thanh, mang tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Trãi.

c. Những nét nổi bật về tư tưởng, con người Nguyễn Trãi qua văn thơ của ông.

- Không thể tách bạch các yếu tố nhà ngoại giao, nhà hiền triết, nhà nho.

- Hết lòng nâng niu năng lực sáng tạo của nhân dân.

- Mang nặng tư tưởng nhân nghĩa.

- Sống liêm khiết.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
26 tháng 11 2023

a. Một số đặc điểm chính của văn chính luận Nguyễn Trãi qua Bình Ngô đại cáo, Thư lại dụ Vương Thông:

- Hệ thống luận điểm rõ ràng, kết nối chặt chẽ, lô-gic.

- Lí lẽ đanh thép kèm theo dẫn chứng cụ thể, thuyết phục.

- Sử dụng thích hợp các biện pháp tu từ tạo sức biểu cảm cao và làm tăng hiệu quả biểu đạt.

- Giọng văn phù hợp với từng hoàn cảnh, mục đích viết, đối tượng hướng tới và thay đổi linh hoạt trong từng luận điểm khác nhau.

b. Một số nét đặc sắc trong thơ Nguyễn Trãi qua Bảo Kính cảnh giới - bài 43Dục Thúy Sơn

-Các quan sát, miêu tả thiên nhiên tinh tế, độc đáo, mới lạ.

- Cảnh vật thường được nhân hoá, sinh động, hữu tình, mang hơi thở, tâm hồn, tình cảm con người.

- Trong cảnh luôn có tình, từ cảnh đi đến bộc lộ tình.

c. Những nét nổi bật về tư tưởng, con người Nguyễn Trãi qua văn thơ ông.

- Yêu nước thương dân là tư tưởng xuyên suốt thơ văn Nguyễn Trãi. Nó thể hiện ở tinh thần nhân nghĩa, trừ bạo để yên dân, ở tấm lòng ưu ái luôn mong dân được no ấm, yên vui, ở tình cảm gắn bó thiết tha với quê hương, xóm làng.

7 tháng 5 2021

tk 

Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông.

Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngày nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.

Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

 

Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.

Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sự ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.

Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.

 

Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.

Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.

23 tháng 1 2022

Vào cuối thế kỷ XIX thời điểm đầu thế kỷ XX, sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ nghĩa tư bản độc quyền là nguyên nhân chính cho việc ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

-Các tổ chức độc quyền và sự phân chia thế giới về tài chính

-Xuất khẩu tư bản là việc xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (góp vốn đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm cướp đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở những nước nhập khẩu tư bản.(và nó xũng là chủ nghĩa tư bản độc quyền)

-Mạng lưới hệ thống tín dụng thanh toán tư bản chủ nghĩa phát triển đã trở thành đòn kích bẩy thúc đẩy tập trung sản xuất, đặc biệt quan trọng là việc hình thành các công ty cổ phiếu đã tạo tiền đề cho việc ra đời của tương đối nhiều tổ chức độc quyền.

  
A. Mở bàiGiới thiệu cảm xúc về cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn các nhà thơ qua Bài ca Côn Sơn (Nguyễn Trãi) và Rằm tháng giêng (Hồ Chí Minh)B. Thân bàiTrình bày những cảm xúc, liên tưởng,tưởng tượng và suy ngẫm của mình về cảnh sắc thiên nhiên ở 2 bài thơ:Đọc bài thơ bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi ta như lạc vào một nơi thiên nhiên đep đẽ, nên thơ,khoáng đạt, dịu mát,cảnh đẹp như...
Đọc tiếp

A. Mở bài

Giới thiệu cảm xúc về cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn các nhà thơ qua Bài ca Côn Sơn (Nguyễn Trãi) và Rằm tháng giêng (Hồ Chí Minh)

B. Thân bài

Trình bày những cảm xúc, liên tưởng,tưởng tượng và suy ngẫm của mình về cảnh sắc thiên nhiên ở 2 bài thơ:Đọc bài thơ bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi ta như lạc vào một nơi thiên nhiên đep đẽ, nên thơ,khoáng đạt, dịu mát,cảnh đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình;ta như được thưởng thức âm thanh trầm bổng,du dương của tiếng đàn cầm là tiếng suối chảy rì rầm....Cảnh Côn Sơn thiên nhiên kỳ thú và nên thơ làm sao!Cảnh sắc thiên nhiên là suối,đá,thông,trúc nhưng sao ta thấy gần gũi và thân thương đến thế! Nó là tiếng đàn muôn điệu,là nơi con người gần gũi giao hòa với thiên nhiên,thả hồn mình với những vần thơ (dẫn chứng)Đến với bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh ta cũng đến với đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng cảnh cũng thật đẹp, thơ mộng;ta cũng được thưởng thức cảnh đêm trăng xuân đầy sức sống.Nó cũng làm cho tâm hồn ta thư thái.Cảnh núi rừng ở đây không có đá ,rêu,thông,trúc nhưng ta được thưởng ngoạn ánh trăng từ sông nước trời mây.Thiên nhiên ở đây không chỉ làm cho con người thư thái, thảnh thơi như trong bài Bài ca Côn Sơn mà còn làm đẹp cho những người chiến sĩ đang hoạt động vì dân,vì nước (dẫn chứng)Trình bày những cảm xúc,liên tưởng,tưởng tượng và suy ngẫm của mình về tâm hồn các nhà thơ qua 2 bài thơ:Bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về tâm hồn của nhà thơ ,nhà thi sĩ Nguyễn Trãi:chủ động đến với thiên nhiên hòa mình với thiên nhiên,yêu nhiên nhiên tha thiết nhưng cũng đầy khí phách,bản lĩnh kiên cường,phong thái ung dung tự tại.Ta chân trọng tâm hồn trong sạch,thanh cao qua cách xưng hô,giọng điệu, hành động,và hình ảnh thiên nhiên (dẫn chứng)Bộc lộ cảm xúc,suy nghĩ của mình về tâm hồn nhà thơ,chiến sĩ Hồ Chí Minh trong bài Rằm tháng giêng:đó là tình yêu thiên nhiên,lòng yêu quê hương thiết tha.Cái đẹp trong tâm hồn Người không phải chỉ là tâm hồn thanh cao, trong sạch của một ẩn sĩ như Nguyễn Trãi mà càng say mê yêu mến cảnh Việt Bắc bao nhiêu thì người càng lo lắng viêc quân sự,sự nghiệp kháng chiến bấy nhiêu.Hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong con người Bác (dẫn chứng)

C. Kết bài

Nhấn mạnh lại cảm xúc và suy nghĩ của mình về cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn các nhà thơ.

ai giúp mình thành bài văn nha !!!

 

 

0
6 tháng 7 2021

THAM KHẢO Ạ

 

Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.

 

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Xong hào kiệt đời nào cũng có”

    - Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:

       + Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.

       + Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.

       + Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.

6 tháng 7 2021

Tham khảo nha em:

Giống với câu "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập"

Sự tương đồng trong tư tưởng của vua Quang Trung với tư tưởng của Nguyễn Trãi đó là nêu lên sự truyền ngôi lâu dài của các triều đại phong kiến ở nước ta. Điều này giúp khẳng định sự tồn tại lâu đời của các triều đại ở nước ta. Và các triều đại của nước ta thì cũng sánh ngang với các triều đại ở Trung Hoa. Tác giả nêu như vậy là để thể hiện sự sánh ngang của các triều đại nước ta với bên Trung Quốc, từ đó khẳng định chủ quyền của VN.

4 tháng 9 2018

Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Xong hào kiệt đời nào cũng có”

    - Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:

       + Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.

       + Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.

       + Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.

7 tháng 6 2020

Khi so sánh tư tưởng của Nguyễn Trãi và tư tưởng của Nam Quốc Sơn Hà ta sẽ có một số luận điểm như

-tư tưởng của Nam Quốc Sơn Hà là theo tư tưởng cổ như

+Mọi việc đã được định theo sách trời

+ Không có tôn trọng chủ quyền phương bắc nhiều 

+ Khẳng định thẳng là nếu xâm lược nước ta sẽ nhân lấy thất bại

- Về bên tư tưởng của Nguyễn Trãi 

+luôn hoạt động dựa trên dân ,sự an nguy của dân lên hằng đầu

+Tôn trọng phương Bắc từ các triều đại đến các chủ quyền riêng 

+ Dựa trên các chứng cớ cho trước để khăng định nếu phương Bắc dòm ngó đến nước ta sẽ chuốc vạ vào thân