K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 12 2024
1. Về tư tưởng và tôn giáo:
  • Nho giáo: Vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, nhưng ảnh hưởng không còn tuyệt đối như trước. Nho giáo được sử dụng để phục vụ cho mục đích củng cố quyền lực của các thế lực phong kiến.
  • Phật giáo: Sau một thời gian suy yếu, Phật giáo được phục hồi và phát triển trở lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
  • Đạo giáo: Cũng có sự phục hồi và phát triển, song quy mô nhỏ hơn so với Phật giáo và Nho giáo.
  • Đạo Thiên Chúa: Xuất hiện từ thế kỷ XVI, đạo Thiên Chúa được các giáo sĩ phương Tây truyền bá vào Đại Việt. Mặc dù bị nhà nước phong kiến cấm đoán, nhưng đạo Thiên Chúa vẫn có một lượng tín đồ nhất định, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng.
2. Về văn học:
  • Văn học chữ Hán: Vẫn là dòng văn học chính thống, chủ yếu là các tác phẩm về sử học, triết học, văn chương.
  • Văn học chữ Nôm: Phát triển mạnh mẽ, phản ánh đời sống sinh hoạt, tình cảm của nhân dân. Các tác phẩm chữ Nôm thường có tính dân gian, gần gũi với đời sống người dân.
  • Chữ Quốc ngữ: Xuất hiện cùng với sự truyền bá của đạo Thiên Chúa, chữ Quốc ngữ dần được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học.
3. Về nghệ thuật:
  • Kiến trúc: Xuất hiện nhiều công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn của các triều đại phong kiến, như các cung điện, đền đài, chùa chiền.
  • Điêu khắc: Các tác phẩm điêu khắc thường được sử dụng để trang trí cho các công trình kiến trúc, hoặc để thờ cúng.
  • Âm nhạc: Âm nhạc dân gian phát triển đa dạng, phong phú, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt của người dân.
4. Về giáo dục:
  • Giáo dục Nho học: Vẫn được coi trọng, nhưng chất lượng giáo dục có phần suy giảm so với trước.
  • Giáo dục chữ Nôm: Phát triển mạnh mẽ, góp phần nâng cao dân trí.
  • Giáo dục của đạo Thiên Chúa: Các giáo sĩ phương Tây mở các trường học để truyền bá đạo và chữ Quốc ngữ.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển biến văn hóa, tôn giáo:

  • Sự suy yếu của nhà nước phong kiến: Gây ra tình trạng hỗn loạn, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội.
  • Sự giao lưu với các nước phương Tây: Mang đến những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến văn hóa Việt Nam.
  • Sự phát triển của kinh tế hàng hóa: Tạo điều kiện cho văn hóa, nghệ thuật phát triển đa dạng.

Kết luận:

Sự chuyển biến văn hóa, tôn giáo ở Đại Việt trong các thế kỷ XVI-XVIII là một quá trình phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố. Mặc dù có những mặt tiêu cực, nhưng giai đoạn này cũng đánh dấu sự phát triển của văn hóa Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong các thời kỳ sau.

26 tháng 12 2024

hihi

Cân trả lừi lè

1. Về tư tưởng và tôn giáo:

  • Nho giáo: Vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, nhưng ảnh hưởng không còn tuyệt đối như trước. Nho giáo được sử dụng để phục vụ cho mục đích củng cố quyền lực của các thế lực phong kiến.
  • Phật giáo: Sau một thời gian suy yếu, Phật giáo được phục hồi và phát triển trở lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
  • Đạo giáo: Cũng có sự phục hồi và phát triển, song quy mô nhỏ hơn so với Phật giáo và Nho giáo.
  • Đạo Thiên Chúa: Xuất hiện từ thế kỷ XVI, đạo Thiên Chúa được các giáo sĩ phương Tây truyền bá vào Đại Việt. Mặc dù bị nhà nước phong kiến cấm đoán, nhưng đạo Thiên Chúa vẫn có một lượng tín đồ nhất định, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng.

2. Về văn học:

  • Văn học chữ Hán: Vẫn là dòng văn học chính thống, chủ yếu là các tác phẩm về sử học, triết học, văn chương.
  • Văn học chữ Nôm: Phát triển mạnh mẽ, phản ánh đời sống sinh hoạt, tình cảm của nhân dân. Các tác phẩm chữ Nôm thường có tính dân gian, gần gũi với đời sống người dân.
  • Chữ Quốc ngữ: Xuất hiện cùng với sự truyền bá của đạo Thiên Chúa, chữ Quốc ngữ dần được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học.

3. Về nghệ thuật:

  • Kiến trúc: Xuất hiện nhiều công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn của các triều đại phong kiến, như các cung điện, đền đài, chùa chiền.
  • Điêu khắc: Các tác phẩm điêu khắc thường được sử dụng để trang trí cho các công trình kiến trúc, hoặc để thờ cúng.
  • Âm nhạc: Âm nhạc dân gian phát triển đa dạng, phong phú, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt của người dân.

4. Về giáo dục:

  • Giáo dục Nho học: Vẫn được coi trọng, nhưng chất lượng giáo dục có phần suy giảm so với trước.
  • Giáo dục chữ Nôm: Phát triển mạnh mẽ, góp phần nâng cao dân trí.
  • Giáo dục của đạo Thiên Chúa: Các giáo sĩ phương Tây mở các trường học để truyền bá đạo và chữ Quốc ngữ.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển biến văn hóa, tôn giáo:

  • Sự suy yếu của nhà nước phong kiến: Gây ra tình trạng hỗn loạn, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội.
  • Sự giao lưu với các nước phương Tây: Mang đến những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến văn hóa Việt Nam.
  • Sự phát triển của kinh tế hàng hóa: Tạo điều kiện cho văn hóa, nghệ thuật phát triển đa dạng.

Kết luận:

Sự chuyển biến văn hóa, tôn giáo ở Đại Việt trong các thế kỷ XVI-XVIII là một quá trình phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố. Mặc dù có những mặt tiêu cực, nhưng giai đoạn này cũng đánh dấu sự phát triển của văn hóa Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong các thời kỳ sau.

21 tháng 12 2023

Tham khảo
- Về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo:

+ Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đề cao trong học tập, thi cử và tuyển chọn quan lại.

+ Phật giáo và Đạo giáo được phục hồi.

+ Năm 1533, Công giáo được truyền bá vào nước ta và dần gây dựng được ảnh hưởng trong quần chúng.

+ Tại các làng, xã, nhân dân vẫn giữ nếp sinh hoạt truyền thống như: thờ Thành hoàng, thờ cúng tổ tiên, tổ chức lễ hội hằng năm,...

- Về chữ viết: trong quá trình truyền Thiên Chúa giáo, các giáo sĩ phương Tây đã dùng chữ cái La-tinh để ghi âm tiếng Việt, tạo ra chữ Quốc ngữ. Loại chữ này dần dần được sử dụng phổ biến vì rất tiện lợi và khoa học.

- Về văn học:

Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế.

+ Văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước.

+ Văn học dân gian tiếp tục phát triển với nhiều thế loại như: truyện tiếu lâm, thể thơ lục bát và song thất lục bát,…

- Về nghệ thuật dân gian:

+ Nghệ thuật điêu khắc rất phát triển với nét chạm khắc mềm mại, tinh tế.

+ Nghệ thuật sân khấu đa dạng với các loại hình như hát chèo, hát ả đào, hát tuồng,... Ngoài ra còn có các điệu múa như: múa trên dây, múa đèn,...

20 tháng 12 2023

Ai giúp vs

 

14 tháng 9 2023

Sự chuyển biến văn hóa, tôn giáo

• Tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo:

- Tôn giáo: 

+ Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đã cao trong học tập, thi cử và tuyến
chọn quan lại. 

+ Phật giáo và Đạo giáo được phục hồi ở các thế kỉ này.

+ Năm 1533, Công giáo được truyền bá vào nước ta, đến thế kỉ XVII được lan truyền
trong cả nước.

- Tín ngưỡng: tại các làng xã, nhân dân vẫn giữ nếp sinh hoạt truyền thống như: thờ Thành hoàng, thờ cúng tổ tiên, tổ chức lễ hội hằng năm, thể hiện tinh thần đoàn kết, yêu quê hương, đất nước.

• Chữ viết: 

- Chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh cũng được sáng tạo. 

- Dần được sử dụng phổ biến vì rất tiện lợi và khoa học.

• Văn học: 

- Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế

- Văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước. 

+ Một số tác giả và tác phẩm nổi tiếng. Bộ diễn ca Thiên Nam ngữ lục,

+ Các nhà thơ nổi tiếng thời kì này như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ,... Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật.

- Văn học dân gian phát triển với nhiều thế loại như: truyện tiểu lâm, truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,... Thể thơ lục bát và song thất lục bát được sử dụng rộng rãi.

• Nghệ thuật dân gian

+ Phát triển, tiêu biểu là nghệ thuật điêu khắc trong các đình, chùa. Nghệ thuật sân khấu đa dạng với các loại hình như hát chèo, hát ả đào, hát tuồng.... 

+ Ngoài ra còn có các điệu múa như: múa trên dây, múa đèn,...

7 tháng 8 2023

Tham khảo!

Về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo :

- Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đề cao trong học tập, thi cử và tuyển lựa quan lại.

- Phật giáo và Đạo giáo thời Lê sơ bị hạn chế, đến lúc này được phục hồi.

- Từ năm 1533, các giáo sĩ (Bồ Đào Nha) theo thuyền buôn đến nước ta truyền bá đạo Thiên Chúa. Sang thế kỉ XVII - XVIII, hoạt động của các giáo sĩ ngày càng tăng.
- Nhân dân vẫn giữ nếp sống văn hoá truyền thống, qua các lễ hội đã thắt chặt tình đoàn kết làng xóm và bồi dưỡng tinh thần yêu quê hương, đất nước.

Chữ viết: Chữ quốc ngữ được sáng tạo và sử dụng phổ biến.Văn học: Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế nhưng văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước; Văn học dân gian phát triển với nhiểu thể loại: Truyện tiếu lâm, truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,...Nghệ thuật dân gian: phát triển, tiêu biểu là nghệ thuật điêu khắc trong các đình, chùa; nghệ thuật sân khấu đa dạng với các loại hình: hát chèo, hát ả đào,... múa trên dây, múa đèn,...
7 tháng 8 2023

Tham khảo!

 

Lĩnh vực

Những chuyển biến

Kinh tế

* Nông nghiệp:

Đàng Ngoài: Xung đột kéo dài khiến sản nông nghiệp sa sút nghiêm trọng, tình trạng biến ruộng công thành ruộng tư ngày càng phổ biến, vua quan không quan tâm đến ruộng đất => nông nghiệp trì trệ.Đàng Trong: rất phát triển, tổ chức khai hoang, cấp nông cụ,… => dần hình thành tầng lớp địa chủ lớn.

* Thủ công nghiệp:

Ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, các chính quyền vẫn duy trì hoạt động của các quan xưởng để sản xuất vũ khí cho quân đội, may trang phục, làm đồ trang sức cho quan lại và đúc tiền,...Các nghề thủ công trong nhân dân phát triển mạnh mẽ hơn như: dệt vải lụa, đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm giấy,... Nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như: làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội); làng dệt La Khê (Hà Nội); các làng rèn sắt ở Nho Lâm (Nghệ An), Hiền Lương, Phú Bài (Huế); làng làm đường mía ở Quảng Nam;...

* Thương nghiệp:

Nội thương:

     - Chợ làng, chợ huyện mọc lên khắp nơi và ngày càng đông đúc.

     - Ở nhiều nơi xuất hiện làng buôn

     - Buôn bán giữa các vùng miền phát triển.

Ngoại thương:

     - Thuyền buôn các nước đến VIệt Nam buôn bán ngày càng tấp nập.

     - Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá, cửa hàng buôn bán lâu dài.

    - Các trung tâm buôn bán lớn ở Đàng Ngoài như Thăng Long, Phố Hiến; Ở Đàng Trong: Thanh Hà (Thừa Thiên Huế), Hội An (Quảng Nam), Gia Định (Tp.HCM),...

Nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị dần suy tàn do chính sách hạn chế ngoại thương của chính quyền.

Tôn giáo

Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đề cao trong học tập, thi cử và tuyển lựa quan lại.

Phật giáo và Đạo giáo thời Lê sơ bị hạn chế, đến lúc này được phục hồi.Từ năm 1533, các giáo sĩ (Bồ Đào Nha) theo thuyền buôn đến nước ta truyền bá đạo Thiên Chúa. Sang thế kỉ XVII - XVIII, hoạt động của các giáo sĩ ngày càng tăng.Nhân dân vẫn giữ nếp sống văn hoá truyền thống, qua các lễ hội đã thắt chặt tình đoàn kết làng xóm và bồi dưỡng tinh thần yêu quê hương, đất nước.

Văn hóa

Chữ viết: Chữ quốc ngữ được sáng tạo và sử dụng phổ biến.Văn học: Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế nhưng văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước; Văn học dân gian phát triển với nhiểu thể loại: Truyện tiếu lâm, truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,...Nghệ thuật dân gian: phát triển, tiêu biểu là nghệ thuật điêu khắc trong các đình, chùa; nghệ thuật sân khấu đa dạng với các loại hình: hát chèo, hát ả đào,... múa trên dây, múa đèn,...Về khoa học - kỹ thuật:

- Sử học: Ô châu  cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,  Đại Việt sử ký tiền biên, Thiên Nam ngữ lục.

- Địa lý: Thiên nam tứ chi lộ đồ thư.

- Quân sự: Khổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ.

- Triết học có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn.

- Y học có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác .

- Kỹ thuật: đúc súng đại bác theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành luỹ.

Về nghệ thuật:

- Nghệ thuật điêu khắc chuyên nghiệp, tinh tế, phong phú, tiêu biểu là các hình trang trí trên đình làng, chùa, tượng thờ.

- Các hình thức sinh hoạt văn hóa như đua thuyền, đánh cầu, đánh vật,.. trở nên phổ biến.

- Nghệ thuật sân khấu: hát chèo (Đàng Ngoài), hát tuồng (Đàng Trong) phát triển.

13 tháng 8 2023

#Tham_khảo:

- Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng:

+ Nho giáo tiếp tục được chính quyền phong kiến đề cao trong giáo dục, khoa cử.

+ Phật giáo và Đạo giáo từng bước phục hồi và phát triển. Nhiều chùa mới được xây dựng như: chùa Tây Phương, chùa Sùng Nghiêm, chùa Quỳnh Lâm, chùa Thiên Mụ,...

+ Từ đầu thế kỉ XVI, các giáo sĩ phương Tây đã theo thuyền buôn vào Đại Việt truyền bá Thiên Chúa giáo. Sang các thế kỉ XVII - XVIII, hoạt động này ngày càng gia tăng.

+ Ở các làng xã, những tín ngưỡng truyền thống như: thờ cúng tổ tiên, tục thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,... vẫn được duy trì.

- Chữ viết: từ thế kỉ XVII, một số giáo sĩ phương Tây đã học tiếng Việt để truyền bá Thiên Chúa giáo, họ dùng chữ cái La-tinh để ghi âm tiết tiếng Việt, tạo ra chữ quốc ngữ.

- Văn học

+ Trong các thế kỉ XVI - XVII, bên cạnh dòng văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế, dòng văn học chữ Nôm phát triển hơn trước, gồm nhiều thể loại như thơ, truyện,... gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ,…

+ Văn học dân gian phát triển rực rỡ phong phú với nhiều thể loại, như: truyện Nôm, thơ lục bát, song thất lục bát,...

Nghệ thuật

+ Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đạt nhiều thành tựu, tiêu biểu là điêu khắc gỗ trong các đình, chùa với những nét chạm khắc tinh xảo.

+ Nghệ thuật sân khấu phát triển phong phú, với các loại hình như chèo, tuồng,...

Tham khảo ở https://vietjack.com/lich-su-8-cd/cau-hoi-trang-37-lich-su-lop-8.jsp

- Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng:

+ Nho giáo tiếp tục được chính quyền phong kiến đề cao trong giáo dục, khoa cử.

+ Phật giáo và Đạo giáo từng bước phục hồi và phát triển. Nhiều chùa mới được xây dựng như: chùa Tây Phương, chùa Sùng Nghiêm, chùa Quỳnh Lâm, chùa Thiên Mụ,...

+ Từ đầu thế kỉ XVI, các giáo sĩ phương Tây đã theo thuyền buôn vào Đại Việt truyền bá Thiên Chúa giáo. Sang các thế kỉ XVII - XVIII, hoạt động này ngày càng gia tăng.

+ Ở các làng xã, những tín ngưỡng truyền thống như: thờ cúng tổ tiên, tục thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,... vẫn được duy trì.

- Chữ viết: từ thế kỉ XVII, một số giáo sĩ phương Tây đã học tiếng Việt để truyền bá Thiên Chúa giáo, họ dùng chữ cái La-tinh để ghi âm tiết tiếng Việt, tạo ra chữ quốc ngữ.

- Văn học

+ Trong các thế kỉ XVI - XVII, bên cạnh dòng văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế, dòng văn học chữ Nôm phát triển hơn trước, gồm nhiều thể loại như thơ, truyện,... gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ,…

+ Văn học dân gian phát triển rực rỡ phong phú với nhiều thể loại, như: truyện Nôm, thơ lục bát, song thất lục bát,...

- Nghệ thuật

+ Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đạt nhiều thành tựu, tiêu biểu là điêu khắc gỗ trong các đình, chùa với những nét chạm khắc tinh xảo.

+ Nghệ thuật sân khấu phát triển phong phú, với các loại hình như chèo, tuồng,...

+ Thế kỉ XVII - XVIII, xuất hiện nghệ thuật tranh dân gian như tranh: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống,..

14 tháng 8 2023

Tham khảo

Lĩnh vực

Nét chính

Kinh tế

*Nông nghiệp:

Ở Đàng Ngoài:

- Kinh tế bị ảnh hưởng do xung đột Nam - Bắc triều, ruộng đất bị bỏ hoang, không có người cày cấy

- Sau khi xung đột chấm dứt, nông nghiệp dần ổn định trở lại.

Ở Đàng Trong: Nông nghiệp phát triển nhờ chính sách khuyến khích khai hoang và định cư của chúa Nguyễn.

* Thủ công nghiệp:

Một số nghề thủ công mới xuất hiện và phổ biến trong thế kỉ XVII, XVIII như: khai mỏ, khắc in bản gỗ, làm đường cát trắng,... Nhiều nghề thủ công truyền thống như làm gốm sứ, dệt lụa, làm giấy, đúc đồng,... vẫn tiếp tục phát triển.Các làng nghề nổi tiếng thời kì này: làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội), làng dệt La Khê (Hà Nội), làng giấy Yên Thái (Hà Nội), làng rèn sắt Nho Lâm (Nghệ An), các làng làm đường ở Quảng Nam,...

* Thương nghiệp:

Về nội thương: ở các thế kỷ XVI - XVIII buôn bán trong nước phát triển:

- Chợ làng, chợ huyện... xuất hiện làng buôn và trung tâm buôn bán.

- Buôn bán lớn (buôn chuyến, buôn thuyền) xuất hiện.

- Buôn bán giữa miền xuôi và miền ngược phát triển, thóc gạo ở Gia Định được đem ra các dinh miền Trung để bán,...

Về ngoại thương: phát triển mạnh.

- Thuyền buôn các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh đến Việt Nam buôn bán tấp nập:

+ Bán vũ khí, thuốc súng, len dạ, bạc, đồng,...

+ Mua: tơ lụa, đường gốm, nông lâm sản.

- Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá, cửa hàng buôn bán lâu dài.

Tôn giáo

Nho giáo suy thoái, trật tự phong kiến bị đảo lộn. Phật giáo có điều kiện khôi phục lại, nhiều vị chúa quan tâm cho sửa sang chùa chiền, đúc đồng, tô tượng nhưng đạo Phật không phát triển mạnh như thời kỳ Lý - Trần.Từ thế kỷ XVI – XVIII, đạo Thiên Chúa lan truyền cả nước nhờ các giáo sĩ phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào truyền đạo nhưng sau đó bị nhà nước phong kiến cấm đoán.Thế kỉ XVII, cùng với sự truyền bá của Thiên Chúa giáo, chữ Quốc ngữ được sáng tạo nhưng chỉ dùng chủ yếu trong phạm vi hoạt động truyền giáo chứ chưa phổ cập rộng rãi.Tín ngưỡng truyền thống phát huy như thờ cúng tổ tiên, thần linh, anh hùng hào kiệt.Đời sống tín ngưỡng ngày càng phong phú. Ngoài chùa chiền còn có các nhà thờ, đền thờ, lăng miếu…

Văn hóa

Về chữ viết: Chữ La-tinh được các nhà truyền đạo phương Tây sử dụng để ghi âm tiếng Việt, đến thế kỉ XVII, tiêng Việt đa rất phong phú, có thể diễn đạt mọi mặt của cuộc sống lúc bấy giờ.Về văn học:

- Văn học chữ Hán: mất dần vị thế độc tôn.

- Văn học chữ Nôm: được dùng nhiều trong sáng tác thơ văn. Nhà thơ Nôm nổi tiếng: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Hoan, Đào Duy Từ…

- Văn học dân gian: hình thành và phát triển mạnh với nhiều thể loại phong phú, mang đậm tính dân tộc, dân gian.

- Văn học chữ Quốc ngữ đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến.

Về khoa học - kỹ thuật:

- Sử học: Ô châu  cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,  Đại Việt sử ký tiền biên, Thiên Nam ngữ lục.

- Địa lý: Thiên nam tứ chi lộ đồ thư.

- Quân sự: Khổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ.

- Triết học có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn.

- Y học có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác .

- Kỹ thuật: đúc súng đại bác theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành luỹ.

Về nghệ thuật:

- Nghệ thuật điêu khắc chuyên nghiệp, tinh tế, phong phú, tiêu biểu là các hình trang trí trên đình làng, chùa, tượng thờ.

- Các hình thức sinh hoạt văn hóa như đua thuyền, đánh cầu, đánh vật,.. trở nên phổ biến.

- Nghệ thuật sân khấu: hát chèo (Đàng Ngoài), hát tuồng (Đàng Trong) phát triển.

14 tháng 8 2023

Tham khảo
loading...

6 tháng 3 2022

Kinh tế:

-       Từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVII, nông nghiệp sa sút, mất mùa đói kém liên miên, bị chiến tranh tàn phá

-       Từ nửa sau thế kỷ XVII, tình hình chính trị ổn định, nông nghiệp ở  Đàng Trong và Đàng Ngoài phát triển:

+         Ruộng đất ở cả 2 đàng mở rộng, nhất là ở Đàng Trong.

+         Thủy lợi được củng cố.

+         Giống cây trồng ngày càng phong phú.

+         Kinh nghiệm sản xuất được đúc kết.

Ở Đàng Trong: ruộng  đất nhanh chóng mở rộng, đất đai phì nhiêu, thời tiết thuận lợi, trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái. Ở cả 2 Đàng chế độ tư hữu ruộng đất phát triển. Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ.

*Việc thờ cúng tổ tiên thể hiện:

Người Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người. Đó là hình thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.

TL
19 tháng 3 2021

Thống kê

 

     + Sử học: Bên cạnh các bộ sử nhà nước còn có các bộ sử tư nhân như Ô châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,...

 

     + Địa lý: tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư,..

 

     + Quân sự: tập Hổ trướng khu cơ,...

 

     + Triết học: bộ sách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác,...

 

     + Kĩ thuật: đúc súng đại bác, đóng thuyền chiến...

4 tháng 2 2019

Chọn D

3 tháng 2 2018

Chọn A

14 tháng 8 2023

Tham khảo

- Chuyển biến về tôn giáo:

+ Đạo giáo và Phật giáo có điều kiện phục hồi.

+ Nho giáo vẫn được nhà nước phong kiến duy trì.

+ Đầu thế kỉ XVI, Thiên Chúa giáo du nhập và dần gây dựng được ảnh hưởng trong dân chúng.

- Miêu tả tín ngưỡng thờ thành hoàng làng:

+ Thành hoàng là người có công với dân làng như: lập làng, lập nghề, dạy học, đánh giặc, cứu người... Cũng giống như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Thành hoàng của người Việt vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý sống của hậu thế đối với bậc tiền bối có công với làng xóm, đất nước. Nếu thờ cúng tổ tiên là đạo lý thể hiện ý thức hướng về nguồn cội của gia đình, dòng họ, thì thờ cúng Thành hoàng làng cũng là sự tôn vinh các bậc tiền bối ở cấp độ làng xã.

+ Trong tâm thức người Việt, Thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi, nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi. 

+ Thờ phụng Thành hoàng là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất lề quê thói được bảo tồn.