đời sống tin thần của cư dân đồng nai từ thế kỉ 10 đến 16
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Câu 1. Trong thế kỷ X đến XVl, cư dân bản địa Đồng Nai chủ yếu là người thổ dân và chăn nuôi là hoạt động chủ yếu của họ. Họ cũng trồng một số loại lương thực như gạo, khoai mì, mía và ớt. Các cư dân bản địa Đồng Nai có kỹ năng sản xuất đồ thủ công, chẳng hạn như vải dệt, sợi dây, đồ da, đồ gốm và vật phẩm trang sức.
Câu 2. Sông Đồng Nai là một trong những con sông lớn và quan trọng nhất ở Đông Nam Bộ Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong đời sống dân cư tỉnh Đồng Nai. Sông cung cấp nước tưới tiêu, cung cấp năng lượng hydro để sản xuất điện và là tuyến đường vận chuyển hàng hóa quan trọng vào và ra khỏi khu vực này.
Câu 3. Nền kinh tế của Trảng Bom có đặc điểm chủ yếu là dựa vào ngành công nghiệp chế biến gia cầm, sản xuất gia vị, chế biến đặc sản và nhà máy nước giải khát. Một số nghề truyền thống như sản xuất đồ gỗ và nông nghiệp như trồng cây cao su và điều cũng phát triển khá mạnh tại đây. Ngoài ra, Trảng Bom có vị trí thuận lợi nằm trên trục đường vành đai III của Tp.HCM cùng hệ thống giao thông nội địa và thông tin hiện đại, giúp các doanh nghiệp có thể phát triển mạnh mẽ hơn

Gợi ý trả lời:
- Nông nghiệp:
+ Săn bắt, hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi.
+ Công cụ lao động được cải tiến đã đem lại hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp
- Thủ công nghiệp:
+ Một số ngành nghề thủ công truyền thống: Nghề gốm, nghề chế tác đá, đúc đồng, nghề se sợi – dệt vải, nghề đan lưới, nghề mộc, nghề chế tác đồ xương, sừng,…
+ Một số nghề thủ công đạt trình độ kĩ thuật cao: Nghề gốm, nghề chế tác đá, nghề luyện kim.
-Thương nghiệp: Biết trao đổi, buôn bán hàng hoá với nhiều vùng đất khác.
=> Đời sống cư dân của cư dân Đồng Nai thời tiền sử, sơ sử được cải thiện, nâng cao

Đáp án A
Nhân dân Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật. Người Chăm có tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay xuống biển. Họ ở nhà sàn và cũng có thói quen ăn trầu cau

REFER
Những công cụ đá cuội được ghè, đẽo tìm thấy ở buôn Păn Lăm (thành phố Buôn Ma Thuột) cho thấy chủ nhân của nó bước đầu đã biết chế tác công cụ lao động, mặc dù còn thô sơ, để tìm kiếm thức ăn.
Những dấu vết cổ sinh hoá thạch dưới trầm tích núi lửa ở Tân Lộc (Ea Kar) cũng như một loạt di cốt động vật hoá thạch (voi, tê giác, hổ, hươu, nai, hoẵng,...) ở nhiều nơi khác trên vùng đất Đắk Lắk cho thấy con người có mặt trên vùng đất này khá sớm. Đời sống của họ chủ yếu dựa vào săn bắt, hái lượm, trồng trọt, có sự phân công lao động; hoạt động thủ công chế tác đồ đá và làm gốm phát triển, có thể bước đầu biết luyện kim.
Bước vào thời đại đá mới, bên cạnh sử dụng những công cụ bằng đá cuội, cư dân nguyên thuỷ ở Đắk Lắk đã biết sử dụng vũ khí bằng tre, gỗ và các loại bẫy để săn bắt. Ngoài việc săn bắt các loài động vật trên cạn, cư dân cổ ở Đắk Lắk còn biết đánh bắt các loài thuỷ sản ở các con sông, suối hoặc đầm lầy. Họ sử dụng lưới được gắn chì hình quả nhót bằng đất nung. Có lẽ do điều kiện môi trường tương đối thuận lợi nên trong hoạt động săn bắt, hái lượm, người nguyên thuỷ ở Đắk Lắk không có thói quen thu lượm các loài nhuyễn thế, nhất là ốc. Bên cạnh đó, việc hái lượm vẫn được duy trì để bổ sung nguồn thức ăn.
Sang thời hậu kì đá mới và sơ kì kim khí, trồng trọt là thành tựu nổi bật nhất của cư dân cổ Đắk Lắk. Trong các di chỉ khảo cô tìm thấy ở Đắk Lắk, Các nhà khảo cổ đã phát hiện được một số mẫu bào tử phân hóa của các giống, loài cây trồng như bông và các loài họ lúa. Đặc biệt, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số hạt lúa nương trong tầng đất chứa công cụ như cuốc, rìu, bôn mài toàn thân và đồ gốm. Rất nhiều lại đồ gốm ám khói, dấu hiệu của việc đun, nấu thức ăn. Những điều này chứng tỏ cư dân cổ Đắk Lắk đã biết trồng trọt các loại rau, cây cho củ, cây ăn quả và cả lúa nương. Nền nông nghiệp sơ khai của cư dân cổ Đắk Lắk đã ra đời.
Mặc dù cuộc sống của cư dân cổ Đắk Lắk chủ yếu vẫn dựa vào hoạt động săn bắt, hái lượm, nhưng sự ra đời của nông nghiệp sơ khai đã đánh dấu sự chuyển biến mới của cư dân thời hậu kì đá mới và sơ kì kim khí ở Đắk Lắk.
Từ đầu Công nguyên trở đi, sản xuất nông nghiệp đã trở thành ngành kinh tế chính trong đời sống của các dân tộc ở Đắk Lắk. Trong sản xuất nông nghiệp, việc làm rẫy chiếm vị trí quan trọng. Cư dân ở đây cũng đã biết trồng xen lúa, bắp với các loại rau, đậu, củ để tận dụng, cải thiện đất, làm cho đất tốt hơn và cho nhiều sản phẩm hơn. Chăn nuôi không được chú trọng và phát triển như vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ hoặc miền núi phía Bắc. Có lẽ do điều kiện tự nhiên ưu đãi với số lượng và chủng loài động vật phong phú sẵn có làm cho cư dân ở đây không có khái niệm chăn nuôi.
Cho đến cuối thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm chiếm, đại bộ phận dân cư các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk sống bằng nghề nông, làm nương, rẫy, săn bắt và hái lượm, lệ thuộc vào tự nhiên. Trình độ sản xuất tuy còn thấp nhưng đất đai rộng lớn và màu mỡ nên cuộc sống của họ vẫn ổn định. Sản phẩm nông nghiệp dư thừa chủ yếu được trao đổi trong cộng đồng buôn làng. Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên vùng đất này, cơ cấu kinh tế ở Đắk Lắk đã có sự thay đổi

kkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkw

Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khi mới thành lập (8/1991) có 05 đơn vị hành
chính cấp huyện
Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khi mới thành lập (8/1991) có 05 đơn vị hành
chính cấp huyện
Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...
Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 16 có thể được hiểu qua các khía cạnh văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật và xã hội. Dưới đây là một số điểm nổi bật:
### 1. **Tôn giáo và tín ngưỡng**
- **Tôn giáo chủ yếu:** Vào thời kỳ này, cư dân Đồng Nai chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Những tôn giáo này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần mà còn đến các phong tục tập quán và lối sống hàng ngày của người dân.
- **Tín ngưỡng địa phương:** Ngoài các tôn giáo lớn, cư dân cũng duy trì các tín ngưỡng dân gian, như thờ cúng tổ tiên và các vị thần địa phương. Nhiều nghi lễ truyền thống được tổ chức để cầu nguyện cho mùa màng bội thu và sự bình an.
### 2. **Văn hóa và nghệ thuật**
- **Văn hóa dân gian:** Các lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, và các trò chơi dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cư dân. Những hoạt động này thường có tính chất cộng đồng cao, giúp gắn kết các thành viên trong cộng đồng.
- **Nghệ thuật dân gian:** Âm nhạc và múa là những phần quan trọng trong đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai. Các hình thức nghệ thuật này thường được sử dụng trong các lễ hội và nghi lễ. Các thể loại nhạc dân gian và múa truyền thống phản ánh văn hóa và phong tục của cư dân địa phương.
### 3. **Giáo dục và học vấn**
- **Học vấn và giáo dục:** Vào thế kỷ 10 đến thế kỷ 16, giáo dục chủ yếu được truyền đạt qua các lớp học truyền thống và các bài học từ gia đình. Nho học, với ảnh hưởng từ Trung Quốc, bắt đầu trở nên phổ biến và ảnh hưởng đến tư tưởng và cách sống của người dân. Các học giả và tri thức được kính trọng trong xã hội.
- **Truyền thuyết và sử thi:** Các truyền thuyết và sử thi địa phương cũng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt các giá trị văn hóa và tinh thần. Những câu chuyện này không chỉ phục vụ mục đích giải trí mà còn giáo dục về các phẩm hạnh và đạo đức.
### 4. **Xã hội và lối sống**
- **Cộng đồng:** Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai cũng được hình thành bởi lối sống cộng đồng. Các hoạt động xã hội, sự gắn kết giữa các gia đình và cộng đồng, và sự hỗ trợ lẫn nhau trong các tình huống khó khăn là những yếu tố quan trọng.
- **Kinh tế và sinh hoạt:** Sự phát triển của nông nghiệp và nghề thủ công là nền tảng của nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần và các hoạt động hàng ngày của cư dân. Các nghi lễ và lễ hội nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc duy trì tinh thần cộng đồng.
### Kết luận
Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 16, đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai được hình thành bởi sự kết hợp của các tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa dân gian, nghệ thuật, giáo dục và các hoạt động xã hội. Những yếu tố này không chỉ phản ánh giá trị và truyền thống của cư dân mà còn góp phần xây dựng nền tảng văn hóa phong phú của khu vực.