K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 5 2023

Quyền khiếu nại: chia tài sản, quyền thừa kế,....

Quyền tố cáo: công dân tố cáo về hành vi sai trái của người khác đối với pháp luật

Hay gần gũi hơn là tố cáo bạn cùng lớp về hành vi ăn cắp đò dùng của bn

9 tháng 3 2023

đg tìm nek cha

6 tháng 5 2019
1. Một số bất cập về pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và thực thi quyền khiếu nại, tố cáo - Trong pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo Chủ thể của quyền khiếu nại còn chưa thống nhất trong Luật khiếu nại năm 2011. Theo khoản 1, 2 Điều 2 của Luật khiếu nại năm 2011 thì người nước ngoài và người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam không được có quyền khiếu nại. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật khiếu nại năm 2011: “Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” thì cá nhân nước ngoài vẫn có quyền khiếu nại và vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật khiếu nại năm 2011. - Quy định người giải quyết khiếu nại cũng còn bất cập. Khoản 6 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại”. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 7 của Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Quy định này không phù hợp, có sự mâu thuẫn với thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định từ Điều 17 đến Điều 26 Luật khiếu nại năm 2011 bởi thẩm quyền giải quyết bao giờ cũng thuộc về cá nhân chứ không thuộc về cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật khiếu nại thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. Nếu phát hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật thì người khiếu nại phải khiếu nại đến người đứng đầu cơ quan, tổ chức chứ không khiếu nại đến người đã ra quyết định hành chính, càng không phải là cơ quan có người có hành vi hành chính trái pháp luật. Với quy định không rõ ràng như khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại năm 2011 thì trong nhiều trường hợp người khiếu nại gửi đơn khiếu nại lòng vòng, không đúng người có thẩm quyền giải quyết và mất quyền khiếu nại khi thời hiệu khiếu nại đã hết. - Theo quy định hiện hành, công dân chỉ có quyền khiếu nại một quyết định hành chính mang tính cá biệt mà không có quyền khiếu nại quyết định mang tính quy phạm của cơ quan nhà nước. Đây là một hạn chế đối với quyền khiếu nại của công dân vì trên thực tế, chính những quyết định này mới gây nhiều bức xúc trong nhân dân và thậm chí dẫn đến những khiếu nại đông người, vượt cấp. Theo thống kê của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), từ năm 2002 đến năm 2005 đã phát hiện 33 tỉnh, thành ban hành 86 Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị có nội dung trái pháp luật(2). Lĩnh vực có nhiều văn bản sai trái nhất là: Xử lý vi phạm hành chính, ưu đãi đầu tư, biên chế, đất đai, lệ phí. Tuy nhiên, quá thời hạn ngày 10-02-2006 (theo đề nghị của Bộ Tư pháp) chỉ có 16/33 địa phương tự bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của mình. - Hiện nay, các văn bản khác có liên quan (nhất là quyền khiếu nại, tố cáo trong một số lĩnh vực nóng như đất đai, PCTN,…) vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân hiện nay, vẫn chưa đủ cơ sở để thực thi hiệu quả trong thực tế dù các văn bản quan trọng đã có những thay đổi đáng kể. - Quá trình thực thi quyền khiếu nại, tố cáo Thứ nhất, về tình hình khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo Theo số liệu của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2005 đến 30-6-2009(3), các cơ quan hành chính nhà nước Trung ương và địa phương đã tiếp nhận 628.305 đơn khiếu nại với tổng số 442.433 vụ việc và đã giải quyết 295.820 vụ việc thuộc thẩm quyền, đạt 93,42%. Trong số đó, UBND các cấp đã nhận 520.586 đơn khiếu nại với tổng số 263.225 vụ việc thuộc thẩm quyền và đã giải quyết 246.404 vụ việc, đạt 93,6%. Các bộ, ngành nhận được 107.719 đơn khiếu nại với tổng số 53.401 vụ việc thuộc thẩm quyền và đã giải quyết 49.416 vụ việc, đạt 92,53%. Trong năm 2010, cả nước đã phát sinh 22.997 lượt đơn tố cáo với 13.152 vụ việc chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức cố ý làm trái, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong quản lý. Qua giải quyết các cơ quan chức năng đã kiến nghị, thu hồi cho Nhà nước 48,187 tỷ đồng, 63,35 ha đất, trả lại cho tập thể, công dân 50,982 tỷ đồng, 123 ha đất và xử lý hành chính 754 trường hợp, chuyển Cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự 46 vụ/89 người. Cụ thể là, từ năm 2006-2010, số công dân khiếu nại, tố cáo tại thành phố Hà Nội là 173.265 (tăng 20% so với giai đoạn 2001- 2005). Số cuộc thanh tra đã triển khai là 1.400; đã giải quyết 11.821 vụ khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, trong năm 2008 khi phân tích 3.278 đơn tố cáo cho thấy có 1.206 đơn tố cáo đúng và 1.407 đơn tố cáo sai (42,8%). Qua đó cho thấy, khá nhiều đơn tố cáo còn chưa chính xác. Cá nhân hoặc đơn vị nếu bị tố cáo sai, ở mức độ nhẹ chưa có thiệt hại, nhưng nếu gây ra những hậu quả nghiêm trọng thì rõ ràng cần phải có hình thức xử lý người tố cáo. Thứ hai, về cơ chế giải quyết khiếu nại, cơ chế bảo vệ người tố cáo - Hiện nay, việc giải quyết khiếu nại chưa bảo đảm đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Tòa án còn bị hạn chế; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là giải quyết khiếu nại lần đầu còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm thực hiện công tác giải quyết khiếu nại; hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao; chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhất là trong lĩnh vực đất đai… còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại. - Về bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo: Theo quy định của Luật tố cáo và Nghị định 76/2012/NĐ-CP thì việc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo có thể coi là một nguyên tắc xuyên suốt quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, do mô hình cơ quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo thường là những tập thể với nhiều bộ phận khác nhau cho nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo thì quy định này khó có thể được bảo đảm. - Về căn cứ để yêu cầu bảo vệ người tố cáo: Mục 2 và Mục 3 Chương 3 của Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định “khi có căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc... của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì tùy từng trường hợp họ có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là “có căn cứ” theo quy định trên là một vấn đề vì quy định này không liệt kê hoặc định lượng ở mức độ, biểu hiện, hành vi nào thì được coi là “có căn cứ”. Vì vậy, trên thực tế có thể dẫn đến một trong hai tình huống: Một là, việc tố cáo chưa thực sự có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; chưa thực sự có thể xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm... của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo nhưng khi được yêu cầu, người có thẩm quyền, trách nhiệm vẫn quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ... Hai là, tình huống thực sự rất cần phải bảo vệ người tố cáo nhưng có thể do quan điểm chưa đủ “căn cứ” nên người có thẩm quyền, trách nhiệm chưa kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ dẫn đến hậu quả việc bảo vệ người tố cáo không đạt yêu cầu theo quy định. - Về quan hệ phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo vệ người tố cáo: Theo quy định của Luật tố cáo và Nghị định 76/2012/NĐ-CP, trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc người giải quyết tố cáo, sau đó là trách nhiệm của các cơ quan phối hợp như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, Ủy ban nhân dân địa phương nơi người tố cáo cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan khác. Về nguyên tắc, việc quy định như vậy cơ bản khắc phục được tình trạng người tố cáo “phải tự đi tìm người bảo vệ mình”, hạn chế được khả năng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, nếu việc phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan không tốt, thì việc bảo vệ người tố cáo vẫn khó có thể đạt yêu cầu trên thực tiễn, nhất là trong các tình huống bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 14 Mục 2 của Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định: “Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu có căn cứ cho thấy có nguy cơ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ biết”. Thực hiện quy định này có thể nảy sinh 02 vấn đề: Một là, việc xác định “cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc,...
Câu 1 Nghĩa vụ của công dân đối với tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng ? em đã làm gì để bảo vệ tài sản của nhà trường. Câu 2 Thế nào là quyền khiếu nại quyền tố cáo nêu ví dụ thực hiện quyền này của em ở trường nhà nước lấy ví dụ trong việc sử dụng quyền tố cáo để bảo vệ tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng của em ở trường ở lớp. Câu 3 Thế nào...
Đọc tiếp

Câu 1 Nghĩa vụ của công dân đối với tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng ? em đã làm gì để bảo vệ tài sản của nhà trường. Câu 2 Thế nào là quyền khiếu nại quyền tố cáo nêu ví dụ thực hiện quyền này của em ở trường nhà nước lấy ví dụ trong việc sử dụng quyền tố cáo để bảo vệ tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng của em ở trường ở lớp. Câu 3 Thế nào là quyền sở hữu tài sản của công dân ? Câu 4 Thế nào là quyền tự do ngôn luận em đã sử dụng ngôn luận như thế nào trong việc phòng chống dịch covid 19 ? Câu 5 Thế nào là quyền khiếu nại tố cáo của công dân? nêu mỗi vị quyền một ví dụ thể hiện quyền khiếu nại tố cáo của em ở trường ở lớp ?

0
23 tháng 4 2022

Quy định:

+ Nghiêm cấm trả thù người khiếu nại, tố cáo.

+ Nghiêm cấm lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống vu cáo, làm hại người khác

12 tháng 5 2019

#)Trả lời :

5 ví dụ về quyền khiếu nại cáo :

   - Nếu thầy cộng điểm bài kiểm tra sai thì mình có quyền khiếu nại bằng cách đưa bài kiểm tra cho thầy và nhờ thầy xem lại còn nếu không dám đưa trực tiếp cho thầy thì có thể nhờ cô/thầy giáo chủ nhiệm đưa cho

   - Giám đóc đuổi việc mà không có lí do thì chúng ta có quyền khiếu nại

   - Gửi đơn kiện ra tòa đòi quyền thừa kế cho mình 

   - Bị xử phạt hành chính quá mức thì có thể khiếu nại 

   - Bị chuyển đi công tác xa có thể khiếu nại

5 ví dụ về quyền tố cáo :

   - Tố cáo một người nào đó có hành vi giết người 

   - Tố cáo một nơi hay địa điểm nào đó mà mình chắc chắn ở đó là nơi buôn bán, tiêm chích ma túy

   - Tố cáo những cán bộ tham nhũng

   - Phát hiện sòng bạc trái phép có thể tố cáo

   - Phát hiện người buôn ma túy trái phép có thể tố cáo 

       #~Will~be~Pens~#

1. Khiếu nại:
+Nếu thầy cộng điểm bài kiểm tra sai thì mình có quyền khiếu nại bằng cách đưa bài kiểm tra cho thầy và nhờ thầy xem lại còn nếu không dám đưa trực tiếp cho thầy thì có thể nhờ cô chủ nhiệm đưa dùm
+Gíam đốc đuổi việc mình mà không có lí do thì chúng ta có quyền khiếu nại
+Gửi đơn kiện ra tòa đòi quyền thừa kế cho mình
2. Tố cáo:
+Tố cáo một người nào đó có hành vi giết người
+Tố cáo một địa điểm nào đó mà mình chắc chắn là ở đó là nơi buôn bán ma túy, tiêm chích ma túy
+Tố cáo những cán bộ tham nhũng