vứt cái gì xuống nước mà ta không lấy lên được
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.




a) Cần câu cũ là vì Cần câu đã cũ mục thì vứt đi, không cần chính là cước và lưỡi câu thì lấy lại vì còn tốt mà
b) Cát

1,thắp que diêm
2,bàn chân
3,núi Thái Sơn
4, Nó cầm dao và đâm vào ngực của chính nó(vì đười ươi hay tự đầm vào ngực mình)
5,bắp ngô
6,Vẫn là đỉnh Everest
7,Cắm ống hút và hút
8,4:3 bằng tứ chia tam ; tứ chia tam bằng tám chia tư

TCCS - Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam hiện nay, bên cạnh những cơ hội là không ít thách thức, khó khăn cần giải quyết. Cơ hội và thách thức đan xen tác động, chuyển hóa lẫn nhau. Việc nhận rõ cơ hội và thách thức trong quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
1- Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) không phải theo phương thức trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc bỏ qua chế độ TBCN, về cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(1).
Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong nền sản xuất xã hội đang vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó còn tồn tại ở mức độ nhất định các quan hệ sản xuất tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác động đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đang định hướng đi lên CNXH. Chính vì vậy, trong thực tiễn cần có những chính sách để các quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng trưởng chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng.
Quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Một khi lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn thấp, đa dạng, cần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, nghĩa là cần có các quan hệ sản xuất đa dạng để tạo điều kiện khai thác các nguồn lực và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Trên phạm vi quốc gia, chúng ta bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN, song trong phạm vi cụ thể như doanh nghiệp, hay các đặc khu kinh tế, quan hệ kinh tế TBCN, cách thức quản lý theo kiểu TBCN vẫn tồn tại, vận hành theo các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Sự vận hành và chi phối của quan hệ sản xuất TBCN vẫn diễn ra trong quá trình sản xuất, song với không gian và thời gian nhất định. Phạm vi không gian và thời gian này được quy định bởi các luật và quy định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH không chỉ là bỏ qua xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN và kiến trúc thượng tầng TBCN, mà còn là bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, cũng như việc tước đoạt tư liệu sản xuất của người lao động, đẩy những người lao động trở thành người làm thuê. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và những người lao động trở thành những người chủ của xã hội mới, thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất, từng bước xây dựng và đưa quan hệ sản xuất mới ngày càng chiếm vị trí chi phối trong nền sản xuất xã hội. Do vậy, bỏ qua chế độ TBCN cũng còn là việc bỏ qua tạo dựng giai cấp thực hiện sự thống trị, bóc lột giai cấp công nhân và những người lao động trong CNTB. Song, trong thời kỳ quá độ cùng với xây dựng giai cấp công nhân là việc hình thành tầng lớp doanh nhân, cùng với những người lao động cùng làm chủ xã hội, cùng xây dựng xã hội mới.
Vậy bỏ qua chế độ TBCN là việc bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, đồng thời bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất và tư liệu sản xuất của người lao động, bỏ qua việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc lột người lao động, và đương nhiên tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN.
2- Trong quá trình vận động đi lên CNXH trong bối cảnh hiện nay, cùng với những cơ hội là không ít thách thức cần vượt qua, đòi hỏi cần có nhận thức hết sức nhạy bén. Sự tác động do cơ hội và thách thức mang lại có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, cơ hội và thách thức luôn đan xen lẫn nhau trong quá trình vận động đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta. Bản thân cơ hội xuất hiện thường gắn liền với thách thức, đan xen nhau cùng tác động. Vấn đề là chúng ta cần nắm bắt cụ thể tình hình, lường trước những thay đổi để nhận rõ các cơ hội cũng như thách thức đặt ra để có giải pháp tận dụng cơ hội, khắc phục các khó khăn, thách thức, không lạc quan thái quá và cũng như không chủ quan trước những thách thức, khó khăn.
Trong môi trường ràng buộc các mối quan hệ, các biến động của môi trường quốc tế luôn đặt ra các cơ hội và thách thức, và tùy thuộc vào lợi ích của các quốc gia mà họ ứng xử với các biến động. Do vậy, các cơ hội, thách thức đặt ra cũng rất đa dạng, có khi là cơ hội với quốc gia này, nhưng lại là thách thức với quốc gia khác.
Sự đan xen cơ hội và thách thức không chỉ trong ứng xử quan hệ với mỗi quốc gia, mà ngay trong từng vấn đề cũng đều bao gồm cả cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh hiện nay, trong mỗi cặp quan hệ quốc tế vừa là đối tác, vừa là đối tượng. Trong quan hệ với đối tác cũng có cả cơ hội và thách thức đối với sự phát triển.
Thứ hai, sự chuyển hóa cơ hội và thách thức trong quá trình tác động đến sự phát triển đi lên CNXH. Thực tế cho thấy cơ hội và thách thức luôn đan xen với nhau, trong cơ hội có thách thức và ngược lại. Nếu có cơ hội đến mà chúng ta không nhận biết, không có khả năng nắm bắt thì sự tụt hậu không chỉ là nguy cơ, mà là các thách thức, các mối đe dọa hiện hữu. Ngược lại, nếu có chính sách tốt, chúng ta có thể chuyển hóa thách thức thành cơ hội cho mình.
Cơ hội không thể tự biến thành lực lượng vật chất trên thực tế mà nó tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của mỗi chủ thể khác nhau. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào vị thế và nỗ lực vươn lên của các chủ thể. Cơ hội và thách thức không phải cố định mà luôn vận động, biến đổi và chuyển hóa. Điều đó cũng có nghĩa thách thức đối với lĩnh vực này có thể lại là cơ hội cho lĩnh vực khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới cho phát triển. Ngược lại, nếu không tận dụng được cơ hội, cơ hội sẽ mất đi, thậm chí chuyển hóa thành thách thức và những khó khăn rất khó vượt qua.
Sự chuyển hóa cơ hội và thách thức không chỉ phụ thuộc vào năng lực chủ quan trong quá trình nhận thức và nắm bắt cơ hội, mà còn phụ thuộc vào thế và lực của bản thân chúng ta trước việc ứng xử các quan hệ. Do vậy việc tạo lập thế và lực rất quan trọng trong tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức. Và chính việc tận dụng được cơ hội lại tạo thế và lực mới cho chúng ta trong bước đường vận động đi lên.
Thứ ba, do mở cửa và hội nhập sâu rộng và sự phát triển của các phương tiện truyền thông, nên sự tác động của môi trường đến sự phát triển của chúng ta rất nhanh nhạy, trực tiếp và phức tạp. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập, với sự phát triển mạnh của phương tiện truyền thông, thế giới ngày càng “phẳng”, nên sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong thế giới toàn cầu hóa rất nhanh nhạy và trực tiếp. Hội nhập càng sâu rộng sẽ cho phép tranh thủ các điều kiện bên ngoài, nhất là tranh thủ tham gia sự phân công lao động quốc tế và thị trường thế giới rộng lớn. Song cũng với hội nhập, gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế toàn cầu, các biến động của thế giới sẽ tác động nhanh và mạnh tới nền kinh tế quốc gia.
Sự tác động lẫn nhau trong thế giới hội nhập như vậy nên thời cơ và thách thức cũng xuất hiện rất nhanh, đòi hỏi có chính sách linh hoạt để tận dụng các cơ hội và hạn chế thách thức. Điều này cần cơ chế quản lý hiệu quả mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
Tác động của bối cảnh mới đến sự phát triển của một quốc gia rất đa dạng, tùy theo vị thế của quốc gia đó. Tuy nhiên, sự tác động đến việc quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN trong bối cảnh chung hiện nay, rõ ràng có nét đặc thù. Cụ thể các quốc gia TBCN hiện nay sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam khác với các nước đang trong quỹ đạo phát triển TBCN, và đặc biệt trong điều kiện có sự chống đối của các thế lực thù địch thì sự tác động càng phức tạp. Nói cách khác việc tranh thủ các điều kiện quốc tế với việc phát triển đi lên CNXH của ta vì vậy cũng phức tạp, khó khăn hơn.
Trong điều kiện tồn tại hệ thống các nước XHCN như trước đây, Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn cả về vật chất và tinh thần trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay là sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, mọi sự hỗ trợ, giúp đỡ đều có điều kiện. Do vậy, chúng ta cần có chiến lược, sách lược phù hợp để tận dụng, thực hiện tốt sự hợp tác đôi bên cùng có lợi.
3- Nhìn nhận cơ hội và thách thức đối với sự phát triển là rất đa dạng, ở đây để thấy được khả năng quá độ lên CNXH, bài viết tập trung xem xét, phân tích tác động của bối cảnh hiện nay đến các điều kiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Dưới góc nhìn này có thể nhận thấy những cơ hội cơ bản sau:
Thứ nhất, thực tiễn phát triển đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo cơ hội cho Việt Nam phân tích, tổng kết, hình dung ngày càng rõ hơn mô hình, con đường đi lên CNXH. Chúng ta biết rằng do sai lầm trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đã dẫn đến mô hình CNXH kiểu cũ ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình CNXH hiện thực phù hợp với sự phát triển trong điều kiện mới. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia đã có những đổi mới, cải cách thành công, trên cơ sở mô hình CNXH phù hợp với điều kiện thực tiễn mỗi quốc gia.
Sự phát triển trên thế giới cho thấy, CNXH không phải là sự đối lập với CNTB, mà là sự kế thừa phát triển theo hình vòng xoáy ốc ở nấc thang cao hơn. Chính quan niệm đối lập giữa CNXH với CNTB trong th...
vứt viên c sủi ngốc quá
sai hết rồi là viên c sủi