Trình bày quá trình Quang Trung xây dựng và phát triển đất nước sau khi chiến tranh kết thúc
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Đáp án B
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, nhờ sự kiên trì, bền bỉ, kiên cường của con người Nhật cùng với chính sách coi trọng con người của chính phủ là nhân tố quan trọng nhất đưa đến sự phát triển “thần kì” của Nhật Bản. Hơn nữa, cũng giống như Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản coi trọng coi trọng phát triển khoa học - công nghệ nhằm tăng suất lao động, điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất.
- Việt Nam cũng cần, đã và đang học tập hai chính sách quan trọng này của Nhật Bản trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Đáp án B
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, nhờ sự kiên trì, bền bỉ, kiên cường của con người Nhật cùng với chính sách coi trọng con người của chính phủ là nhân tố quan trọng nhất đưa đến sự phát triển “thần kì” của Nhật Bản. Hơn nữa, cũng giống như Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản coi trọng coi trọng phát triển khoa học - công nghệ nhằm tăng suất lao động, điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất.
- Việt Nam cũng cần, đã và đang học tập hai chính sách quan trọng này của Nhật Bản trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Câu 1:
Thời gian thành lập thành lập: 8/8/1967
Thành vien sáng lập: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines
Nguyên tắc hoạt động: biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên

Tham khảo
Vị trí địa lí của tỉnh Gia Lai:
- Tỉnh Gia Lai nằm ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Vị trí địa lí của tỉnh có những đặc điểm quan trọng như sau:
+ Toạ độ địa lý: Tỉnh Gia Lai nằm ở khoảng vĩ độ 13°50' đến 15°10' Bắc và kinh độ 107°25' đến 109°33' Đông.
+ Tiếp giáp và kết nối: Gia Lai giáp biên giới với Campuchia phía nam và các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Kon Tum phía bắc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và kết nối với các vùng lân cận.
Ý nghĩa của vị trí địa lí đối với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội tỉnh Gia Lai:
- Giao thương và phát triển kinh tế: Vị trí biên giới phía nam giúp tỉnh Gia Lai có cơ hội hợp tác thương mại và giao thương với Campuchia. Điều này có thể tạo cơ hội phát triển kinh tế qua việc xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
- Nông nghiệp và nguồn tài nguyên thiên nhiên: Địa hình núi non của Tây Nguyên là môi trường thích hợp cho nông nghiệp, chủ yếu là sản xuất cà phê, hồ tiêu, và cao su. Ngoài ra, vùng đất này cũng cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng như gỗ, khoáng sản, và nước ngọt từ các sông và hồ.
- Phát triển du lịch: Vùng Tây Nguyên và tỉnh Gia Lai có cảnh quan thiên nhiên đẹp và văn hóa dân tộc đa dạng. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành du lịch, đưa đến cơ hội kinh tế và việc làm cho người dân địa phương.
- Kết nối vùng: Tọa độ địa lý của Gia Lai là điểm nối giữa nhiều tỉnh thành khác trong khu vực Tây Nguyên. Điều này giúp kết nối giao thông và cơ sở hạ tầng vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và văn hóa cũng như việc di chuyển và giao thương giữa các vùng.

Trước chiến tranh thế giới thứ 2, hầu hết các nước Đông Âu đều lệ thuộc vào các nước phương Tây, năm 1944, 1945 nhân dân các quốc gia Đông Âu đã phối hợp với Hồng quân Xô viết tiêu diệt phát xít giành chính quyền và thành lập nhà nước dân chủ.
Sau khi được giải phóng, các nước Đông Âu tiến hành cải cách dân chủ dưới những hình thức như cải cách ruộng đất, quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản. Đến năm 1949, các nước Đông Âu đều hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu xây dựng CNXH.
Từ năm 1950 – 1970, các nước Đông Âu thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm trong tình hình khó khăn, phức tạp.
Các nước Đông Âu xây dựng nền công nghiệp, điện khí hóa toàn quốc, trình độ khoa học – kĩ thuật phát triển đã giúp các nước nghèo, nước XHCN Đông Âu thành các quốc gia công – nông nghiệp.
Quang Trung Hoàng đế (1753 – 1792), miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ (西山太祖; được dùng để phân biệt với Nguyễn Thái Tổ nhà Nguyễn), danh xưng khác là Bắc Bình Vương, tên khai sinh là Hồ Thơm, sau đổi tên thành Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Bình[1], là nhà chính trị, nhà quân sự và là vị hoàng đế thứ 2 của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho ông. Quang Trung không những là một trong những vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc bách chiến bách thắng, mà còn là nhà cai trị tài giỏi. Ông đã đưa ra nhiều chính sách cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong mười bốn vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.[2]
Nguyễn Huệ và 2 người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Tây Sơn tam kiệt, là những lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng Nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc. Bản thân ông đã cầm quân chiến đấu từ năm 18 tuổi, trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn, và chưa hề thua một trận nào.
Có những người cho rằng tài năng của Quang Trung chỉ thiên về làm tướng cầm quân đánh trận, nhưng thực ra ông cũng rất có tài năng về chính trị, kinh tế, ngoại giao để cai trị đất nước trong cương vị của một hoàng đế. Nhà sử học Phan Huy Lê đã đánh giá “Quang Trung không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc mà còn là một nhà chính trị có biệt tài”[3] Với nhãn quan tiến bộ, chỉ trong 3 năm, ông đã liên tiếp đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự,... nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây.[4] Về nhân sự, ông đã xuống chiếu cầu hiền và trọng dụng nhiều nhân tài như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiệp, Nguyễn Huy Lượng... Về quân sự, ông cho xây dựng quân đội trang bị hiện đại (hải quân thời Tây Sơn còn hiện đại hơn cả hải quân nhà Nguyễn sau này). Về kinh tế, ông cải cách chế độ đinh điền và ruộng đất, khuyến khích thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương với phương Tây. Về giáo dục, ông cải tiến thi cử theo hướng thiết thực và ban hành chính sách khuyến học, khuyến khích dùng chữ Nôm thuần Việt thay cho chữ Hán, sắp xếp lại chùa chiền dư thừa và bài trừ mê tín dị đoan. Giới sử học đánh giá rất cao những cải cách này bởi chúng mang xu hướng rất tiến bộ và vượt trên các nước châu Á đương thời, có thể đưa đất nước thoát khỏi sự trì trệ đã kéo dài trên 100 năm của chế độ phong kiến thời Trịnh - Nguyễn. Đến tận mãi sau này (năm 1822), Hoa kiều từng sống ở Huế dưới thời Tây Sơn vẫn còn hoài niệm về sự cai trị của Nguyễn Huệ, họ nhận xét với thương gia người Anh cho rằng Quang Trung cai trị ôn hòa và công bằng hơn các vua nhà Nguyễn (Gia Long và Minh Mạng)[5] (xem chi tiết tại những cải cách tiến bộ của vua Quang Trung).
Về mặt đối ngoại, Quang Trung tỏ rõ tham vọng vượt xa các vị vua khác trong lịch sử Việt Nam. Ông là vị vua Đại Việt duy nhất đã xúc tiến việc giành lấy lãnh thổ của Trung Quốc (tỉnh Quảng Tây) để mở rộng lãnh thổ cho Đại Việt, cũng là hoàng đế Đại Việt duy nhất có đủ khí phách để chủ động cầu hôn với một công chúa Trung Hoa (để thông qua đó ép vua Càn Long của Trung Quốc cắt tỉnh Quảng Tây, nếu không được thì sẽ dùng quân sự đánh chiếm[6]) Vua Càn Long, vị vua nổi tiếng với Thập toàn võ công trong thời cực thịnh của nhà Thanh, cũng phải đánh giá rất cao tài năng ngài Quang Trung. Sau này, trong bài thơ Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi Quang Trung là người “phi thường", có "chí cả mưu cao".
Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn[7] Sau 20 năm liên tục chinh chiến và 3 năm trị nước, khi tình hình đất nước bắt đầu có chuyển biến tốt thì Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi 39. Sau cái chết của ông, Nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Người kế vị ông là Quang Toản vẫn còn quá nhỏ (9 tuổi) nên không đủ khả năng để lãnh đạo Đại Việt, triều đình lâm vào mâu thuẫn nội bộ và đã thất bại trong việc tiếp tục chống lại Nguyễn Ánh.
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và cả trong văn học dân gian. Khi Quang Trung mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của ông. Dù sau này Nhà Nguyễn tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín của Quang Trung (nhà Nguyễn là hậu duệ của chúa Nguyễn, từng bị nhà Tây Sơn đánh đổ) như phá bỏ đền thờ, cấm người dân thờ cúng, truy lùng các bề tôi, con cháu của Quang Trung... Các đời hoàng đế Nhà Nguyễn đều coi ông là "giặc" trong các tài liệu triều đình. Bất chấp những điều đó, ký ức về các chiến công của Quang Trung vẫn được những người mến mộ ông truyền tụng suốt 150 năm.
Ngày nay, Nguyễn Huệ được coi là vị anh hùng dân tộc của Việt Nam, nhiều trường học và đường phố ở các địa phương được đặt các tên Quang Trung và Nguyễn Huệ, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh có một đường phố đồng thời là một đường hoa và cũng là phố đi bộ mang tên ông.
Về kinh tế:
- Nông nghiệp:
+ Ban hành “Chiếu khuyến nông” để giải quyết tình trạng ruộng đất bỏ hoang và nạn lưu vong.
=> Mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.
- Thủ công nghiệp và thương nghiệp:
+ Bãi bỏ hoặc giảm nhẹ nhiều loại thuế.
+ Yêu cầu nhà Thanh mở cửa ải, thông chơi búa.
=> Hàng hóa được lưu thông, không bị ngưng đọng, làm lợi cho sự tiêu dùng của dân. Nghề thủ công và buôn bán được phục hồi dần.
* Về văn hóa, giáo dục:
- Ban bố Chiếu lập học, các huyện, xã được nhà nước khuyến khích mở trường học.
- Dùng chữ Nôm làm chữ viết chính thức của nhà nước.
- Giao cho Nguyễn Thiếp lập Viện Sùng chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, làm tài liệu học tập.
=> Quang Trung đề cao việc phát triển giáo dục, muốn tiến tới thay thế tài liệu học tập bằng tiếng mẹ đẻ, thoát li khỏi sự lệ thuộc vào văn tự nước ngoài.