K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bạn ko tích mk cũng đc

Sự hình thành triết học Mác chia làm hai giai đoạn cơ bản:

1)           Quá trình hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Quá trình này hoàn thành vào năm 1844.

2)         Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ ngĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm

với sự xuất hiện tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản".

Trong thời đại của Mác và Ăngghen, quá trình phát triển triết học Mác lại được chia làm hai giai đoạn: 1) Từ 1848 đến Công xá Pari 1871; 2) Từ 1871 cho đến 1895.

Các Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơrivơ của nước Đức. Bố ông là luật sư, đánh giá cao phái khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và chế độ dân chủ tư sản đã được xác lập ở Pháp, nhưng không có khuynh hướng cách mạng. Ông có một ảnh hưởng lớn đến việc học tập và phấn đấu của Mác. Năm 1835, C.Mác vào học luật ở Trường đại học Bon và qua một năm chuyển sang học ở Trường đại học Béclin. Ở đây, ông chuyển sang nghiên cứu lịch sử và triết học. Cha ông muốn ông trở thành luật sư, một viên chức nhà nước. Nhưng ngay từ thời sinh viên, Mác đã là người chống lại chế độ xã hội đang thống trị ở Đức hồi đó.

Tác phẩm khoa học đầu tiên của ông hồi trẻ là luận án tiến sĩ. Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya được bảo vệ năm 1841. Trong tác phẩm này, Mác còn đứng trên lập trường duy tâm của Hêghen. Ông coi sự phát triển của tự ý thức của con người là động lực phát triển của lịch sử nhân loại. Nhưng ngay việc lựa chọn đề tài luận án, sự quan tâm của Mác đối với các nhà duy vật cổ đại đã nói lên sự bất đồng của ông với Hêghen. Trong khi nhấn mạnh cuộc đấu tranh của Êpiquya chống tôn giáo, tuyên truyền chủ nghĩa vô thần, Mác đánh giá cao vai trò của ông trong lịch sử triết học. Mác phê phán nghiêm khắc thái độ miệt thị Êpiquya vẫn có từ trước đến nay trong chủ nghĩa duy tâm và chứng minh rằng, Êpiquya đã làm phong phú thêm nguyên tư luận của Đêmôcrít. Trong bản luận án cũng bộc lộ rõ cố gắng của Mác để vượt ra ngoài giới hạn quan niệm của Hêghen và phái Hêghen trẻ về vấn đề quan hệ của tư duy với hiện thực xung quanh ở bên ngoài. Theo Mác, sự thống nhất của tự ý thức và hiện thực bên ngoài phải trải qua những trình độ khác nhau: sự hoà hợp, kết quả của sự phát triển của tự ý thức, được thay thế bằng một cuộc xung đột sâu sắc mà không thể giải quyết bằng con đưòng lý luận, bằng sự phê phán. Cách giải quyết bằng thực tiễn, bằng cách mạng sự xung đột đó lại xác lập trở lại một thời gian nhất định sự hoà hợp giữa tự ý thức và tồn tại, nhưng sự hoà hợp đó không thể là tuyệt đối, không thể là vĩnh viễn. Những lập luận đó của Mác còn xa với quan niệm duy vật biện chứng nhưng đã chứa đựng mầm mống của quan niệm sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và tồn tại thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Mác đã sớm ý thức được rằng, triết học phải đấu tranh chống lại tất cả các vị thần ở trên trời và ở trần thế, phải phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị thực tiễn nhằm giải phóng nhân loại bị áp bức. Đó cũng là chỗ phân phân biệt Mác với Hêghen và phái Hêghen trẻ. Chính vì vậy, Mác đã đặt cơ sở để cải tạo phép biện chứng Hêghen theo tinh thần cách mạng, ông nói rằng, phép biện chứng là "dòng suối cuồn cuộn" phá vỡ và lật đổ những hình thức tồn tại bị hạn chế, hữu hạn về mặt lịch sử. Tư tưởng này hoàn toàn đối lập với quan niệm của Hêghen, tức là quan niệm cho rằng: quá trình lịch sử toàn thế giới đã được hoàn thiện bởi Nhà nước Phổ và triết học của ông ta đã đạt tới đỉnh cao tuyệt đối.

Mác cũng hiểu rằng, ý chí cách mạng của ông không tương hợp với công việc giảng dạy ở trường đại học của Đức; vì vậy, ông đã từ chối không nhận chức giáo sư ở trường Đại học Bon, mà trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chính trị. Vào năm 1842, ông trở thành biên tập viên của "Báo Sông Ranh". Dưới sự lãnh đạo của ông, tờ báo đã trở thành cơ quan của phái dân chủ - cách mạng.

Như vậy, ngay từ buổi đầu hoạt động sáng tạo của mình, Mác vẫn còn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, chịu ảnh hưởng của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Song, khuynh hướng dân chủ cách mạng của Mác hoàn toàn xa lạ với họ và sự bất đồng của Mác với Hêghen và phái Hêghen trẻ bộc lộ ra trên những vấn đề cơ bản nhất của triết học mà ở thời kỳ này ông chưa thể giải thích được một cách đầy đủ và rõ ràng.

Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen cũng hình thành một cách độc lập với C.Mác. Phriđrích Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở thành phố Bácmên (Đức), trong một gia đình chủ xưởng sợi. Ông không được học đại học, thậm chí ngay cả trung học, bố ông cũng không cho ông học hết và muốn ông sớm trở thành nhà kinh doanh. Năm 1838, Ăngghen được phái đi làm thư ký nhà buôn ở Brêmen. Ông đã kiên trì tự học, tham gia hoạt động khoa học và chính trị và tự chọn con đường cách mạng của cuộc đời mình. Lòng yêu tự do có tính chất dân chủ cách mạng đưa ông tới niềm tin về những cải biến xã hội do nhân dân thực hiện và giúp ông chuyển từ lập trường tôn giáo sang lập trường của chủ nghĩa vô thần. Trong khi công khai đứng trên lập trường của chủ nghĩa dân chủ cách mạng, năm 1839, Ăngghen xuất bản Những bức thư từ Vesphali, trong đó ông đả kích bộ mặt sùng đạo của bọn chủ xưởng và tỏ ra có thiện cảm sâu sắc với công nhân. Nhưng lúc này, Ăngghen chưa phân biệt được giai cấp công nhân như là một giai cấp đặc biệt được giai cấp công nhân như một giai cấp đặc biệt trong đám quần chúng bị bóc lột và bị áp bức. Năm 1841, Ăngghen đi Béclin làm nghĩa vụ quân sự, làm quen với những người thuộc phái Hêghen trẻ và đứng vào hàng ngũ của họ. Trong khi nghiên cứu triết học Hêghen, ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vượt qua triết học này để đi tới một thế giới quan thực sự cách mạng gắn liền với cuộc đấu tranh thực tiễn của nhân dân. Trong khi phê phán triết học về sự linh báo của Senlinh, mặc dù còn ở lập trường duy tâm chủ nghĩa, ông đã thấy sự mâu thuẫn trong triết học Hêghen giữa tiến bộ và bảo thủ, tuy chưa thấy được mâu thuẫn giữa phương pháp và hệ thống; ông thấy triết học Phoiơbắc có tính chất triệt để hơn các nguyên lý triết học của Hêghen, mặc dù chứa thấy sự đối lập về nguyên tắc giữa chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc và chủ nghĩa duy tâm Hêghen. Về nhiệm vụ của triết học, Ăngghen cho rằng: cần phải kết hợp triết học với đấu tranh chính trị thực tiễn. Cuối năm 1842, Ăngghen sang Anh, ở Mansestơ, làm công trong một xưởng sợi mà bố ông là một trong những người chủ xưởng. Ở đây, ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế - chính trị học cổ điển Anh, trực tiếp nghiên cứu phong trào công nhân ở nước công nghiệp phát triển nhất thời kỳ đó.

Như vậy, ngay từ bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, Mác và Ăngghen vẫn còn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng; mặc dù vậy, các ông đã cố gắng để vượt ra khỏi khuôn khổ của nó song chưa thực hiện được.

Giai đoạn mới trong hoạt động của Mác bắt đầu từ thời kỳ làm biên tập viên Báo Sông Ranh (cuối 1842 đến đầu 1843). Chủ để cơ bản của những bài báo của Mác là bảo vệ lợi ích của những người lao động. Những bài báo về chế độ kiểm duyệt, về chế độ đại diện phân chia đẳng cấp, về sự ức hiếp nông dân nghèo, về tình trạng bần cùng của nông dân, về tệ quan liêu của các quan chức... đã làm cho Chính phủ phản động Phổ để ý theo dõi và mùa Xuân 1843, chúng ra lệnh đóng cửa tờ báo vì bị kết tội tuyên truyền cách mạng và thậm chí tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Mác bác bỏ lời buộc tội đó và nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cộng sản đề ra vấn đề mang tính chất thời đại, ý nghĩa của nó ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của xã hội, nhất là của công nghiệp, vì thế, ông không có quyền làm ngơ không biết đến chủ nghĩa cộng sản.

Thời gian làm báo này tuy rất ngắn nhưng đã giúp ông khắc phục những phương diện tiêu cực trong ảnh hưởng của triết học Hêghen. Trong cuộc đấu tranh dân chủ cách mạng cho lợi ích của nhân dân lao động, Mác nhận ra ngày càng rõ rệt tính chất bảo thủ của lý tưởng xã hội; sự mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp; tính không vững chắc trong nguyên lý lý luận xuất phát về sự thống nhất của tồn tại và tư duy của Hêghen. Mác chống lại Nhà nước Phổ phản động; đồng thời cũng có nghĩa là ông đoạn tuyệt với sự tuyệt đối hoá nhà nước nói chung theo quan điểm duy tâm của Hêghen, với sự miêu tả mọi nhà nước như là cơ thể hợp lý, hợp đạo đức và với sự thỏa hiệp của Hêghen đối với trật tự hiện có. Trong thời gian hoạt động ở Báo Sông Ranh, Mác chú ý đến đời sống kinh tế của xã hội mà Hêghen và phái Hêghen trẻ coi như là một cái gì thứ yếu so với nhà nước, tôn giáo, đời sống tinh thần của xã hội nói chung. Nhờ đó, Mác nhìn thấy không những tính chất phản động trong sự thỏa hiệp của Hêghen đối với chế độ hiện hành, mà cả tính chất vô căn cứ của chủ nghĩa chủ quan của phái Hêghen trẻ tách rời hiện thực, không dựa vào những động lực vốn có của hiện thực. Vì thế, không bao lâu sau đó, Mác đã đoạn tuyệt với phái Hêghen trẻ ở Béclin. Mặt  khác, Mác cũng nhận thấy rằng, phép biện chứng của Hêghen không đáp ứng được trình độ nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, không vạch ra được những nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa của các vấn để thực tiễn. Từ đó, Mác hướng theo con đường cải tạo mang tinh thần cách mạng phép biện chứng của Hêghen, phát triển một cách có phê phán "hạt nhân hợp lý" của phép biện chứng đó.

Như vậy, ở thời kỳ này, Mác ngày càng xa rời chủ nghĩa duy tâm. Lênin nhận xét rằng, Báo Sông Ranh năm 1842 đã để lộ rõ bước đầu chuyển hướng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang thế giới quan mới, sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa xã hội khoa học.

Lútvích Phoiơbắc có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành thế giới quan của Mác và Ăngghen năm 1842 - 1843, chính Phoiơbắc trước kia là người tán thành triết học của Hêghen và thuộc phái Hêghen trẻ. Nhưng về sau, ông đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm...

10 tháng 1 2022

Quá trình hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Quá trình này hoàn thành vào năm 1844.

Tiểu sử Phriđơrich Ăngghen Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I. Ph. Ăngghen (1820 - 1895) Phriđơrich Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein,...
Đọc tiếp
Tiểu sử Phriđơrich Ăngghen Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận chính trị, là một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản và là lãnh tụ của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế I. Ph. Ăngghen (1820 - 1895) Phriđơrich Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Cha ông là người rất sùng đạo, song trong công việc là người có nghị lực, tháo vát, về chính kiến là người bảo thủ. Mẹ Ăngghen xuất thân từ môi trường trí thức, một phụ nữ nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, đặc biệt thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật. Ông ngoại Ăngghen là nhà ngôn ngữ học cũng có ảnh hưởng lớn đến Ăngghen. Ăngghen có tám anh chị em. Các em trai của Ăngghen đều đi theo con đường đã vạch sẵn của người cha, trở thành những chủ xưởng. Sống ở một trung tâm công nghiệp lớn của tỉnh Rhein, ngay từ thời thơ ấu Ăngghen đã nhìn thấy bức tranh đa dạng sự bần cùng không lối thoát của người dân lao động. Từ nhỏ Ăngghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc và những sự đe doạ trừng phạt của cha không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ăngghen học tại thành phố Barmen. Tháng Mười 1834, Ăngghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Ngay khi còn học ở Trường trung học, Ăngghen đã căm thù chế độ chuyên chế và sự chuyên quyền của bọn quan lại. Những tâm trạng đối lập với chế độ chuyên chế Phổ đã góp phần thức tỉnh rất sớm ý thức chính trị ở Ph. Ăngghen. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ăngghen buộc phải rời khỏi trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố. Công việc kinh doanh không mấy hấp dẫn Ăngghen song Ăngghen có thể sử dụng được nhiều thời giờ rỗi vào việc tự học và nghiên cứu trong các lĩnh vực sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca những môn rất hấp dẫn đối với Ăngghen. Tháng 6 năm 1838, theo yêu cầu của bố, Ăngghen đến làm việc tại văn phòng thương mại lớn của một thương nhân ở thành phố cảng Barmen. Tại thành phố cảng lớn buôn bán với nhiều nơi trên thế giới, Ăngghen đã mở rộng tầm hiểu biết về nền văn học và báo chí nước ngoài. Tác động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi ở Đức hồi bấy giờ đã thúc đẩy ở Ăngghen hình thành các quan điểm dân chủ - cách mạng. Gần như trùng hợp, cuối năm 1939 (hai năm sau so với Các Mác), Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen (Hégel). Cái hấp dẫn của Hêghen (trong cuốn Triết học lịch sử) đối với Ăngghen là tư tưởng về vận động tiến lên của lịch sử loài người đến những hình thái cao hơn. Trong hoạt động chính luận của Ăngghen, người ta thấy ảnh hưởng tư tưởng đó của Hêghen, song ở Ăngghen là quan điểm biện chứng đối với lịch sử loài người và các hiện tượng của đời sống xã hội, là sự vận dụng những tư tưởng cơ bản của phép biện chứng cuả Hêghen vào thực tiễn cuộc sống. Ăngghen quyết định không trở thành thương gia như ý chí của bố để hiến thân cho một sự nghiệp khác cao cả hơn. Tháng 9 năm 1841, Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh. Ở đây, Ăngghen được huấn luyện quân sự mà kiến thức thu lượm được trong những năm sau, ông rất cần đến nó. Thời gian này ông vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Những bước đi đầu tiên của Ăngghen đến với chủ nghĩa duy vật thể hiện ở chỗ Ăngghen đã phát triển và bảo vệ tư tưởng về sự thống nhất của thế giới, tư tưởng về sự tất yếu nội tại và tính quy luật. Mùa xuân năm 1842, Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Phái Hêghen trẻ tích cực tham gia tờ báo này, song từ tháng 10 – 1842, khi Các Mác lãnh đạo Ban biên tập thì tờ báo ngày càng mang tính chất dân chủ cách mạng triệt để. Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ Rheinische Zeitung cùng với Mác, Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về thành phố quê hương Barmen, một tháng sau, Ăngghen lên đường sang nước Anh thực tập buôn bán tại nhà máy kéo sợi bông thuộc công ty mà bố ông là đồng chủ nhân. Trên đường sang Anh, Ăngghen ghé thăm trụ sở tờ Rheinische Zeitung ở Koln (Kioln) và lần đầu tiên, Ăngghen có cuộc gặp gỡ với Các Mác, Tổng Biên tập tờ báo. Sang nước Anh, Ăngghen lưu lại hai năm. Thời gian đó là trường học tuyệt vời giúp Ăngghen trở thành nhà xã hội chủ nghĩa. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ăngghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ăngghen nhận định, không thể xoá bỏ được mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, ông đi đến kết luận đằng sau cuộc đấu tranh của các đảng phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp. Thời gian này Ăngghen chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với quan điểm của phái Hêghen trẻ. Tuy nhiên, thời gian sống ở Anh đã có ý nghĩa quyết định đối với Ăngghen trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm để trở thành nhà duy vật. Ăngghen tham gia viết báo cho tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp – Đức) ra đời vào tháng 2 – 1844. Các bài báo của Ăngghen đăng trên tạp chí này là những bài báo đầu tiên đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản. Xem xét các hiện tượng kinh tế trong mối quan hệ qua lại và trong sự phát triển, Ăngghen đã chỉ ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, coi đó là cơ sở của sự phát triển. Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ăngghen có giá trị to lớn ở chỗ ông đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 8 năm 1844, trên đường về Tổ quốc, Ăngghen ghé lại Paris gặp Các Mác. Từ đó bắt đầu sự cộng tác chặt chẽ giữa hai người. Tháng 2 năm 1845, cuốn sách Gia đình thánh của Mác và Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ mà thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, đồng thời nêu lên luận điểm hết sức quan trọng về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cũng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846) phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach (Ludwig Feuerbach) nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp sau đó, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm Mác và Ăngghen cùng viết Tuyên ngôn của đảng cộng sản. Hai ông đã lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm thế giới quan của đảng vô sản. Năm 1848, ở nước Pháp, Mác và Ăngghen đã ra sức củng cố những mối liên hệ với các hoạt động phong trào dân chủ và cộng sản ở Pháp. Những năm tháng sống ở Paris, Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt động Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản (LĐNNCS) và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những người lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức do Ban chấp hành Trung ương LĐNNCS sáng lập. Tháng 3 năm 1848 cùng với Mác, Ăngghen đã thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban Chấp hành Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4 năm1848 cùng với Mác, Ăngghen trở về Đức tham gia trực tiếp vào cuộc cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5 năm 1848, Ăngghen đến Koln cùng Mác chuẩn bị xuất bản tờ báo Neue Rheinische Zeitung (Báo mới tỉnh Ranh) mà hai ông là linh hồn của tờ báo. Cuối tháng 8 năm 1848, khi Mác đi Berlin (Đức) và Viên (Áo) để quyên tiền cho việc tiếp tục xuất bản tờ báo, Ăngghen thay thế cương vị Tổng Biên tập của Mác, đứng mũi chịu sào trước những truy bức không ngừng của vương quốc Phổ, ông đã thể hiện một nghị lực phi thường và tài năng tổ chức của một lãnh tụ cách mạng. Ngoài ra, Ăngghen còn tích cực tham gia vào phong trào quần chúng rộng lớn, đòi thành lập Uỷ ban an ninh bảo vệ quyền lợi của tầng lớp nhân dân bị pháp luật Phổ tước bỏ quyền đại diện ở Quốc hội. Tháng 10 năm 1848 Ăngghen vội vã rời Barmen lên đường đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ. Nhà đương cục Bỉ không cho Ăngghen cư trú chính trị và ngày 5 tháng 10 năm 1848, Ăngghen đến Paris lưu lại ít ngày sau đó, đi Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức. Ăngghen được bầu vào Uỷ ban Trung ương của tổ chức này. Tháng Giêng năm 1849, khi không còn nguy cơ bị bắt ở Đức nữa, Ăngghen trở về Koln tiếp tục hoạt động cách mạng. Trên tờ báo Neue Rheinische Zeitung, Ăngghen đánh giá cao chiến thuật quân sự của quân đội cách mạng Hongrie. Họ biết dùng chiến tranh du kích để đánh bật kẻ địch ra khỏi vị trí của chúng. Nhận định của Ăngghen chứng tỏ ông còn là một nhà lý luận và nhà chiến lược quân sự. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (Tháng 5/1849), Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, trong đó ông đã đề ra kế hoạch nghi binh thu hút đại bộ phận quân Phổ để có thời gian thành lập quân đội cách mạng ở hữu ngạn sông Rhein đồng thời với việc tổ chức các cuộc khởi nghĩa và những trận đánh ở chiến luỹ các thành phố nhỏ nằm bên tả ngạn. Nhờ thế mà cuộc khởi nghĩa được triển khai ra khắp nước. Ngày 10 tháng 5 năm1849, Ăngghen đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các chiến luỹ trong thành phố đồng thời kiêm nhiệm phụ trách pháo binh. Sau cuộc khởi nghĩa ở Tây - Nam nước Đức, Ăngghen đưa ra một kế hoạch đã suy nghĩ kỹ để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng và dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này bản thân Ăngghen trực tiếp tham gia bốn trận đánh lớn, trong đo có trận Rastatt, một trận có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Vì vậy mà sau đó, Ăngghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng. Trước tác này đã nói lên khả năng thiên tài quân sự của ông. Tháng 11 năm 1849, Ăngghen đến Lơnđơn (London) của nước Anh và được bổ sung ngay vào BCH Trung ương LĐNNCS mà Các Mác đã cải tổ sau khi đến đây. Ăngghen sống ở London một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Tháng 11 năm 1850, Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester (Anh) và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Ăngghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với Các Mác, Ăngghen tham gia lãnh đạo Quốc tế I. Tháng 9 năm 1870, Ăngghen quay trở lại Lơnđơn và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế I. Ở đó, Ăngghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của Phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1872, Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Paris. Trong thời gian này, Ăngghen viêt một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa Mác. Sau khi Các Mác qua đời (1883), Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, hoàn thiện bản thảo và chuẩn bị cho in tập II và III của bộ Tư bản mà Mác chưa kịp hoàn thành. Ăngghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Ngồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Luivich Phoiơbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866); Biện chứng tự nhiên; Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894). Những tác phẩm này của Ăngghen, ngoài ý nghĩa tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản khoa học, còn có ý nghĩa về mặt giá trị lý luận và thực tiễn cao, đồng thời làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác. Phriđơrich Ăngghen mất ngày 05 tháng 8 năm 1895 tại làng Yoking gần thủ đô Lơnđơn, thi hài ông sau đó được hỏa táng và thủy táng xuống biển./.
0
Câu 1. Đối tượng nghiên cứu của Triết học là          A. hệ thống các quan điểm lí luận chung nhất về thế giới.          B. mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại.C. những qui luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động và phát triển của thế giới.          D. thế giới quan và phương pháp luận chung cho mọi hoạt động thực tiễn và hoạt...
Đọc tiếp

Câu 1. Đối tượng nghiên cứu của Triết học là

          A. hệ thống các quan điểm lí luận chung nhất về thế giới.

          B. mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại.

C. những qui luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động và phát triển của thế giới.

          D. thế giới quan và phương pháp luận chung cho mọi hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.

Câu 2. Thế giới quan là

          A. quan điểm, cách nhìn về thế giới tự nhiên.

          B. quan điểm, cách nhìn về xã hội.

          C. toàn bộ những quan điểm, niềm tin nhìn nhận về các sự vật cụ thể.

          D. toàn bộ những quan điểm, niềm tin định hướng hoạt động cho con người trong cuộc sống.

Câu 3. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng

          A. trong trạng thái vận động, phát triển.

          B. trong sự ràng buộc lẫn nhau.

          C. trong trạng thái đứng im, cô lập, không vận động, không phát triển.

          D. trong quá trình vận động không ngừng.

Câu 4. Để nhận biết về các trường phái thế giới quan: thế giới quan duy vật hay thế giới quan duy tâm, người ta dựa trên cơ sở quan niệm của trường phái đó về vấn đề nào?

          A. Con người nhận thức thế giới xung quanh như thế nào.

          B. Trường phái đó coi trọng lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần.

          C. Xem xét giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào.

          D. Con người có tin vào chúa hay không.

Câu 5. Phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau giữa chúng , trong sự vận động và phát triển không ngừng của chúng là quan điểm của phương pháp luận

          A. logic.                     B. lịch sử.                   C. triết học.                D. biện chứng.

Câu 6. Cách thức chung nhất để đạt mục đích đặt ra được gọi là gì?

          A. Phương hướng.             B. Phương pháp.                C. Phương tiện.           D. Công cụ.

Câu 7. Thế giới quan duy vật được thể hiện trong câu truyện cổ tích Việt Nam nào sau đây?

          A. Sự tích quả dưa hấu.                   B. Sự tích con muỗi.

          C. Thần trụ trời.                                D. Sự tích đầm dạ trạch.

Câu 8. Bố bạn N không cho con chơi với bạn H vì cho rằng bố bạn H nghiện ma túy thì sau này bạn H cũng nghiện ma túy, nếu chơi vói bạn H, N sữ cũng bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập. Theo em, quan niệm của bố bạn N thể hiện cách xem xét sự vật theo

          A. thế giới quan duy vật.                             B. thế giới quan duy tâm.

          C. phương pháp luận biện chứng.              D. phương pháp luận siêu hình.

Câu 9. Hôm nay cô giáo trả bài kiểm tra, điểm của cả lớp rất kém, duy có bạn B được 6 điểm. Cô giáo tuyên dương và khen ngợi ý thức học tập của bạn B và đề nghị cả lớp phải học tập noi theo. Bạn P lẩm nhẩm: hôm cả lớp được 10, cái X được 8 thì cô chê và phê bình nó chểnh mảng, thằng B được 6 có giỏi gì mà phải học tập, cô thiên vị. Em sẽ lựa chọn cách nào để giải thích cho bạn P?

          A. Không nên phản ứng thế, cô giáo biết được sẽ trù dập mình.

          B. Điểm 6 là điểm cao nhất lớp, bạn B được cô giáo khen là đúng.

          C. Điểm 6 hay điểm 8, mình cứ cố gắng học tốt là được, chẳng liên quan đến ai, sao phải bận tâm đến việc cô giáo thiên vị ai chứ.

D. Điểm 6 hôm nay là điểm cao nhất lớp, điểm 8 hôm trước là điểm thấp nhất lớp nên cô giáo đánh giá như vậy là đúng và không thiên vị ai.

0
2 tháng 1 2022

A

19 tháng 3 2018

Triết học là hệ thống các quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó.

Đáp án cần chọn là: B

15 tháng 9 2021

triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất và vị trí của con người trong thế giới đó

vấn đề cơ bản của triết học : gồm 2 mặt 

+mặt thứ nhất:trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức  cáci nào có trước cái nào có sau và cái nào quyết định 

+mặt thứ 2 : trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.
 

7 tháng 11 2021

Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. Vấn đề cơ bản của triết học (hay đối tượng nghiên cứu) là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức nên mang tính trừu tượng cao.

Các môn khoa học cụ thể thì có đối tượng nghiên cứu rất rõ ràng về vật chất cụ thể nào đó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức.
Tóm lại, triết học nghiên cứu về những thứ trừu tượng, vô hình. Khoa học nghiên cứu về những thứ hữu hình.

Vai trò của Triết học
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của triết học như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.

Trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con người tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan như một thấu kính, qua đó con người nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.

Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp

28 tháng 10 2021

Bảo thủ

3 tháng 4 2019

Đáp án: A

22 tháng 1 2018

Đáp án B