nhất,nhị,tam,tứ,ngũ,lục,thất,bát cửu,thập
hãy ghép câu với mỗi từ ngữ ở trên
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ca dao, dân ca: Các thể loại trữ tình dân gian kết hợp với lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
Tục ngữ: những câu nói ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh thể hiện kinh nghiệm của nhân dân được áp dụng vào cuộc sống.
Thơ trữ tình: sự kết hợp giữa lời và nhạc mang tính biểu cảm nói lên tư tưởng, giá trị hiện thực của thời đó
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt: gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ, trong đó có 1, 2, 4 hoặc chỉ câu 2 và 4 hiệp vần với nhau
Thể thơ dân tộc: bắt nguồn từ ca dao, dân ca, với kết cấu theo từng cặp (câu 6/ câu 8). Vần bằng, lưng, liền, nhịp 2/2/2/2; 3/3/4/4; luật bằng trắc: 2B- 2T- 6B- 8B
Thơ song thất lục bát: kết hợp giữa thể thơ thất ngôn đường luật và thơ lục bát, một khổ 4 câu ( 2 câu 6/ câu 8)
- Phép tương phản nghệ thuật: Sự đối lập giữa các hình ảnh, chi tiết, nhân vật, để tô đậm và nhấn mạnh đối tượng
Thể thơ ca vốn thiên trọng về loại văn trữ tình. Sự phân định như thế: người sáng tác cổ đại chưa dễ chấp nhận. Vì vậy, nhân loại mới có những thiên trường ca, sử thi bất hủ. Thế nhưng các tác giả truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII – XIX không thể sáng tạo những trường ca, sử thi. Họ sử dụng thể thơ để sáng tác loại truyện, khá gần gũi với truyện hiện đại. Họ là người của thời trung và cận đại. Họ buộc phải có cách thế xử lý đặc thù, trong một phương thức tiếp biến văn hóa đặc thù của dân tộc Việt, một dân tộc ngồn ngộn sức sống vươn lên tự chủ, mà cơ tầng văn hóa điểm tựa của họ vốn rất mong manh, so với văn hóa ngoại lai phương Bắc và với văn hóa bản địa cộng đồng già cỗi.
Trong tình thế văn hóa ấy, dân tộc Việt phải sử dụng văn vần để sáng tác truyện, nhưng không thể xoay ngược lịch sử để có sử thi – anh hùng ca cổ đại. Họ chọn thể thơ lục bát, qua những thể nghiệm sàng lọc, có tính văn hóa. Họ chấp nhận thể thơ này vì sự hòa quyện đều đặn và liên tục, có khả năng bất tận, rất phù hợp với mạch thời gian của truyện. Đây còn là thể thơ có biểu hiện kết gắn với truyền thống văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa, có biểu hiện phần đề kháng với văn hóa ngoại lai. Về mặt giải pháp tình thế văn hóa, việc sáng tạo truyện bằng thơ ca, vốn có từ cổ đại, còn tạm thời đáp ứng yêu cầu ghi nhớ – lưu truyền, khi mà đại bộ phận nhân dân không sử dụng thông thạo các thứ chữ viết, đang được bộ phận sĩ phu trí thức xem đó là một công cụ, hoặc hơn thế, là một vũ khí văn hóa dân tộc.
Đến thế kỷ XVIII, hầu hết các dân tộc có bề dày văn hóa, và nhất là đã có một thứ văn tự phổ thông, ghi chép được ngôn ngữ của tầng lớp quần chúng bình dân đông đảo, đều đã có truyện được viết với thể văn xuôi, mang phong cách đại chúng. Điều này có tính phổ quát ở nhiều dân tộc Đông – Tây.
Ngay với Trung Quốc, văn hóa ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến dân tộc Việt, tiểu thuyết thoại bản đời Tống Kim đã hình thành, từ thế kỷ X – XIII. Theo một nhận định thì, sự xuất hiện của thoại bản đã mở ra một kỷ nguyên mới mẻ trong lịch sử văn học, có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành chương hồi trong tiểu thuyết.
Thời nhà Minh (1368 – 1628), hàng loạt tiểu thuyết chương hồi lừng danh và bất hủ đã ra đời, xuất phát từ những thoại bản nói trên, như: Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Kim bình mai, Phong thần,…. Đến thế kỷ XVIII, đời nhà Thanh, những đoản thiên tiểu thuyết của bộ Liêu trai chí dị càng nâng lên giá trị nghệ thuật của truyện văn xuôi Trung Quốc.
Không thể phủ nhận những thành tựu sáng tác loại văn tự sự của Trung Quốc có ảnh hưởng nhất định đến việc sáng tạo truyện của dân tộc Việt, nhất là về mặt hư cấu nghệ thuật. Kết hợp với phương thức hư cấu nghệ thuật dân gian Việt bản địa, vận dụng thể thơ lục bát, dân tộc Việt đã hoàn chỉnh thể loại truyện thơ Nôm và thôi thúc sự phát triển thể loại này để khẩn trương giải quyết một nhu cầu kiến tạo văn hóa dân tộc, theo cách thức tiếp biến văn hóa của dân tộc.
Việc chấp nhận thể thơ lục bát của dân tộc vượt lên chức năng của loại văn trữ tình để làm thêm chức năng tự sự, thay thế cho văn xuôi chữ Nôm, đưa thể loại truyện sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc tiến gần đến thể loại truyện cận – hiện đại, phản ánh chân thực hiện thực theo cách thế riêng, là một sáng tạo tình thế đáp ứng nhu cầu văn hóa Việt. Chép truyện với thể thơ bản địa, mang yêu vận, quả là thuận lợi, do khả năng gợi nhớ cao, khi truyền khẩu và do liên tục thay vận, có thể kéo dài bất tận, thành trường ca. Tuy nhiên, giới hạn của khả năng ghi nhớ và quy cách của hình thức thể thơ đã làm nên một phần cái “khuôn khổ nghệ thuật” của thể loại truyện thơ Nôm. Nó không thể phát triển lê thê như “chương hồi tiểu thuyết”. Thể loại truyện thơ Nôm, sau bước dò dẫm sáng tạo diễn ca lịch sử với Thiên Nam ngữ lục, yếu tố tự sự đã bước đầu vận động tự thân để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của cộng đồng. Nó tiến gần với khả năng diễn đạt của thể loại truyền kỳ, một thể loại có đặc trưng miêu tả linh hoạt, sống động như tân truyện (novel), truyện ngắn (novelette) cận hiện đại. Thể loại truyện thơ Nôm đã tự hình thành quy định số lượng âm tiết (ký tự thường không quá 30.000, trừ Thiên Nam ngữ lục) và một bố cục tròn trịa theo “ước lệ”. Đó là nét đặc trưng thuộc bản chất của thể loại truyện thơ Nôm cần được trọng thị. Nó hoàn toàn xuất phát từ sự phát triển các thành tố nội tại của thể loại truyện thơ Nôm. Mặt khác, do hoàn cảnh đặc thù của văn hóa Việt, thể thơ lục bát dễ dàng chuyển hóa trở thành một thể văn phương tiện – đa chức năng biểu đạt.
Trước nhu cầu phát triển loại văn tự sự, có phân biệt tinh tế về phong cách loại truyện, như một nhu cầu góp phần xây dựng, củng cố và phản ánh – ghi nhận bước phát triển văn hóa dân tộc Việt, thể thơ lục bát giàu đặc trưng bản địa, cuối cùng, đã được lựa chọn làm phương tiện tối ưu và duy nhất, để chuyển tải truyện Nôm. Hầu như hoàn toàn không có văn bản viết truyện Nôm văn xuôi. Không hề có một Thoại bản truyện Nôm văn xuôi, được ghi chép một cách trau chuốt để trở thành thể loại Chương hồi hoặc Đoản thiên tiểu thuyết, như ở văn học Trung Quốc.
Có thể tìm thấy nguyên nhân của sự thiếu vắng này, ở điều kiện kinh tế – xã hội. Sự phát triển những phường hội tiểu thủ công chưa có nhu cầu cần thiết một tầng lớp nghệ nhân đông đảo chuyên nghiệp hành nghề kể chuyện. Cũng có thể nói về sự mỏng manh non trẻ – thực sự – của văn hóa Việt Kinh, so với sự đồ sộ của văn hóa Trung Hoa và sự già cỗi của văn hóa các dân tộc bản địa anh em, thiếu hơi cho một truyện kể quy mô dằng dặc chương hồi. Ngay cả truyện văn xuôi Việt – Hán (không kể ngụy thư Lĩnh Nam dật sử), tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hiện đang được nâng niu, vốn hình thành bởi Ngô gia văn phái thời danh, vẫn có một kết cấu lỏng lẻo.
Tuy nhiên, ở hiện tượng này, nếu so sánh, đánh đồng với ngôn ngữ viết của văn chương Việt – Hán với văn ngôn Trung Quốc, vốn mang phong cách “ngôn ngữ văn hóa bác học thời cổ đại”, và ngôn ngữ nói của dân tộc Việt tương đương với Bạch thoại, “ngôn ngữ hàng ngày của xã hội” Trung Quốc, thì quả thật “có những khía cạnh chưa ổn”1 và chưa lý giải phần nào hiện tượng thiếu vắng nói trên.
Thiết nghĩ, lý giải hiện tượng trên vô cùng cần thiết cho việc tìm hiểu thể loại truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII – XIX, mà thể thơ lục bát giữ vai trò độc quyền thể hiện loại truyện sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc. Sự lý giải, trước tiên, vẫn phải căn cứ vào những điểm mốc biểu hiện rõ nét ý thức phân biệt thể loại văn học, quy cách hóa về giá trị thẩm mỹ cho ngôn ngữ, vốn đang thực hiện chức năng văn hóa nhận thức và giao tiếp của con người.
Ở Tây phương, từ cổ đại Hy Lạp, Aristote (- 384 đến – 347), trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ca (âm tiếng Hy Lạp: Pêri – Pôiêêtx; Pháp dịch: La Poétique; Trung Quốc dịch: Thi học), thơ ca chưa là một thuật ngữ phân loại văn học (văn xuôi, văn vần, …), mà có nghĩa chỉ chung những sáng tác văn học. Bởi lẽ Aristote cho rằng: “Sử thi, Bi kịch thi, cũng như Hài kịch, thơ ca tụng Tửu thần … đều là những nghệ thuật bắt chước” [1, tr. 32]. “Bắt chước” (Mimêxitxơ, Mimèsis), ở đây không phải là hoàn toàn thể hiện cái bóng dáng của ý niệm (ideas) sẵn có – mang tính tiên thiên (a priori) – để hình thành văn học nghệ thuật, như quan niệm của Platon. Với Aristote, đây là sự “bắt chước” sáng tạo tích cực. Dù “thiên tính bắt chước vốn có trong chúng ta”, nhưng “sản phẩm của sự bắt chước mang lại thích thú cho con người”. “Nhiều cái vốn khó coi, nhưng hình tượng của nó lại được ta ngắm nghía một cách thích thú” [1, Chương IV; tr. 41 – 42]. Vì “nhà thơ là người bắt chước, … nên phải bắt chước một trong ba cái sau đây: hoặc là như chúng đã và đang có, hoặc là đúng như người ta nói và nghĩ về chúng, hoặc là như chúng cần phải có” [1, C.XXV; tr.111]. Tuy nhiên, “khi xét về cái không thể có trong thơ ca, thì nên chú ý tới việc lý tưởng hóa, hoặc khái niệm phổ biến về các sự vật; tức là, trong tác phẩm thơ ca, tốt hơn là nên chọn cái gì mới nhìn tưởng như không thể có nhưng lại có thể xảy ra, hơn là chọn cái không thể xảy ra mặc dầu có thể có …” [1, C.XXV; tr. 116 – 117]. Aristote, không có sự phân biệt cứng nhắc giữa văn xuôi và văn vần. Bởi lẽ, khi đã mang chất thơ ca, ngôn ngữ đời thường luôn đã được cách điệu hóa, theo định hướng “bắt chước” hiện thực.
Tìm hiểu “nghệ thuật thơ ca” (bao gồm các thể loại văn chương) theo quan niệm của Aristote, vào cổ đại phương Tây, chủ yếu là để tìm kiếm một vết tích xa xưa sự phân biệt của con người về thể văn vần và thể văn xuôi. Tư liệu hiện tồn cho thấy sự phân biệt đó không mang ý nghĩa quan trọng bằng cách thế sử dụng ngôn ngữ như thế nào để “bắt chước” hiện thực, mà làm thành tác phẩm nghệ thuật, với sự thích thú sáng tạo của, trước tiên là, tác giả.
Chính hứng thú sáng tạo thế giới nghệ thuật này – dù có tự giác hay không; công việc sáng tạo là nghiệp dư hay chuyên nghiệp – đã là động lực thuộc tính của con người, thôi thúc hành vi sáng tạo văn chương nghệ thuật của con người.
Sự hình thành và quy định phân biệt các thể loại văn chương, ngoài tiện ích cho nhu cầu giao tiếp trong cuộc sống từng cộng đồng xã hội cụ thể, lại còn là thách thức đặt ra cho hứng thú sáng tạo thế giới nghệ thuật của con người. Dĩ nhiên, tiện ích và hứng thú luôn có sự tùy thuộc nhất định đối với giai tầng xã hội của chủ thể sáng tạo, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Vì thế, những quan niệm phân biệt thể loại cũng không ngừng vận động trong dòng chảy lịch sử văn học, thậm chí có cả những quỹ đạo lặp lại điểm chiếu quá khứ, ở...
cau 1: giống; đều có 7 chu, khac: that ngon tu tuyet la co 4 dòng còn that ngôn bát cú là 8 dòng
cau 2:giong : deu co dạng cau 6 và 8 , khac song that luc bat có 1 so cau co 7 chu
cau 3 : giong :deu la 4 dong ,khac,that ngon tu tuyet la co 4 chu tren 1 dong con ngu ngon tu tuyet la 5 chu tren 1 dong
cau 4 :tuong tu nhu cau 2
Phần 1: Trắc nghiệm:
Câu 1: Ca dao chủ yếu sử dụng hình thức thơ nào?
A: Lục bát B. Thất ngôn C.Song thất lục bát D. Ngũ ngôn
Câu 2: Những hình ảnh đứng sau cụm từ: “Thân em như….” Được sử dụng với biện pháp tu từ nào?
A. Ẩn dụ B.Nhân hóa C.Nhân hóa D.So sánh
câu 3: Từ láy được tạo thành trên cơ sở……………theo một quy luật nhất định.
A.kết hợp nghĩa B.lặp âm thanh C.Hòa phối âm thanh
Câu 4:Từ nào dưới đây là từ ghép Hán Việt?
A.Núi sông B.Ông cha C.Hồi hương D.nước nhà
Bài thơ “Sông núi nước Nam” được làm theo thể thơ nào? *
A. Thất ngôn bát cú
B. Ngũ ngôn
C. Thất ngôn tứ tuyệt
D. Song thất lục bát
TL
Nhất Quỷ Nhì Ma Thứ 3 Học Trò
Em rất thích chơi trò Tam Cúc
tui chỉ trả lời được những thế thui
HT
em đã giành giải nhất trong cuộc thi cờ vua. trường em có nhị chị đại. trò chơi tam cúc rất nổi tiếng. nhóm em có tứ người. buổi sáng em ăn ngũ cốc. chiếc vòng lục bảo này rất quý giá. vì lười học nên Nam đã thất nghiệp đại học. chiếc bát do nghệ nhân làm rất tinh xảo. cửa vĩ hồ hay còn gọi là hồ ly chín đuôi. 1 thiên niên kỉ bằng 10 thập kỉ