su khac nhau giua xuong nguoi va thu
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Sự khác nhau giữa xương tay và xương chân ta do hoạt động lao động của con người
- Xương tay nhỏ hơn, các ngón tay càng ngày càng linh hoạt hơn để thích hợp cho việc cầm nắm --> con người mới có thể cầm dụng cụ lao động, hái lượn....
- Xương chân to hơn là giúp nâng đỡ các bộ phận của con người và di chuyển dễ dàng.

I. Về phương diện nội dung
1. Mối quan hệ hôn nhân
a. Chồng:
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nhân vật Trương Sinh được giới thiệu:Trương Sinh có tính cả ghen, hay để tâm xét nét vợ, nhưng vợ chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy ra.Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa được bao lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải từ giã mẹ và vợ đi lính thú
Qua cách giới thiệu này, ta thấy tác giả dân gian chỉ nói đến nhân vật Trương Sinh có đặc điểm hạn chế thường thấy của đàn ông là hay có tính ghen tuông và thường hay xét nét vợ mình, ngoài ra chàng không hề có một “ưu điểm” nào. Theo quan điểm Nho giáo cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì việc Vũ Thị Thiết gặp một người chồng như thế cũng không có gì gọi là may mắn. Xây dựng kiểu nhân vật có mỗi đặc điểm đơn điệu như thế, phải chăng tác giả dân gian chỉ dùng nó cho mục đích dẫn dắt tính tất yếu của bi kịch ghen tuông sau này?
Nhưng ở Chuyện người con gái Nam Xương, nhân vật Trương Sinh xuất hiện đầy đủ các mặt ưu và nhược điểm: Chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra triều đình bắt đi lính đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu.
Về ưu điểm, đó là chàng biết chọn vợ (mến vì dung hạnh) và sống có khuôn phép, tôn trọng mẹ (xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về). Và điều quan trọng, chàng Trương thuộc gia đình dòng dõi, phong lưu (con nhà hào phú). Còn nhược điểm, thứ nhất, cũng giống như truyệnVợ chàng Trương, Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Điều này thuộc bản tính tự nhiên, thường tình, rất người. Thứ hai, chàng không có học. Tuy không có học nhưng qua cách tìm vợ và phép tắc với mẹ, ta thấy chàng không phải không biết cách xử sự. Dù rằng, Trương Sinh không thật hoàn hảo, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, với Vũ Nương, nàng lấy được tấm chồng như thế cũng là quá may mắn. Hãy đặt trong sự so sánh với người phụ nữ cùng thời, nàng còn hơn bao kẻ khác. Biết bao người phụ nữ gặp hoàn cảnh đắng cay vẫn phải cắn răng mà chịu đựng:
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi! Cho tôi mượn cái gầu sòng
Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.
- Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm
Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái ôm lưng lão già
Ông ơi, ông buông tôi ra
Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.
(Ca dao)
Như thế, tuy chưa phải hoàn hảo, nhưng Trương Sinh vẫn có nhiều ưu điểm của người chồng để đáng được trân trọng. Thêm vào những chi tiết đề cao thế mạnh của chàng Trương như thế, hẳn Nguyễn Dữ có dụng ý riêng trong việc xây dựng nhân vật của mình.
b. Mẹ chồng
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, hình ảnh mẹ chồng chỉ được gợi đến một cách rất mờ nhạt:Nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống táng đều lo liệu chu toàn. Ở đây, tác giả dân gian chỉ nói đến quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất mờ nhạt.
Còn trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình ảnh mẹ chồng được khắc họa rất rõ nét ở những thời điểm:
- Khi tiễn Trương Sinh đi lính:Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng: “Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được”. Thêm vào chi tiết này, Nguyễn Dữ gợi dẫn cho người đọc nhận thức về một người mẹ có tầm hiểu biết.
- Khi sắp qua đời: Bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Từ lời trăng trối của mẹ chồng, ta nhận thấy mối quan hệ hai chiều trong tình cảm mẹ chồng – nàng dâu. Người mẹ thấu hiểu công lao và sự thơm thảo của con dâu trong miếng cơm miếng cháo, khi sống chết không khỏi phiền đến con. Điều này trong xã hội phong kiến rất hi hữu, thường là Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau (ca dao). Đặc biệt, mẹ chồng Vũ Nương đã đặt vào con dâu bằng tất cả niềm tin, hi vọng trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Liệu nàng có hiểu hết tấm lòng người mẹ chồng dành cho nàng Con dâu mới thật mẹ cha mua về (ca dao)? Trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả thêm vào lời thoại ở hai thời điểm như thế nên hình ảnh người mẹ chồng đã được nổi bật rất rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó cũng là lợi thế – giá trị tinh thần mà mấy nàng dâu gặp được trong xã hội bấy giờ. Đó không phải là điều có một không hai sao, khi ca dao đã từng nói:
Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Qua việc so sánh cách xây dựng mối quan hệ hôn nhân trong hai tác phẩm, ta thấy ý đồ của truyện cổ tích Vợ chàng Trương và Chuyện người con gái Nam Xương hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, tác giả dân gian xây dựng chi tiết này chỉ mang tính dẫn dắt cho sự tiếp diễn những sự việc sau, thì với Nguyễn Dữ, ngoài việc dẫn dắt, ông đã gợi cho người đọc nhận thức về hoàn cảnh Vũ Nương. Trong xã hội phong kiến khắt khe, có một hoàn cảnh đầy ưu thế như vậy, liệu Vũ Nương có ý thức được điều may mắn hiếm có ấy để phát huy trong cuộc sống hay không? Như thế, dùbi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được chọn chồng của người phụ nữ, thì với nàng, điều may mắn đã đến. May mắn như thế, nhưng Vũ Nương có coi là quan trọng để biết cách gìn giữ, thì điều đó lại tùy thuộc vào ý thức, trách nhiệm của nàng trước cuộc sống.
Xây dựng mối quan hệ hôn nhân với nhiều điều may mắn hơn so với Vợ chàng Trương, phải chăng Nguyễn Dữ để người đọc thấy được một Vũ Nương có những ưu thế trong tay nhưng đã không biết phân biệt điều hơn, lẽ thiệt giữa đời nên dẫn đến việc lựa chọn cái chết đầy tính ích kỉ?
2. Bi kịch ghen tuông
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nguyên nhân bi kịch ghen tuông được kể: Tối nào bố Đản cũng đến… Mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi…Chẳng bao giờ bố bế Đản cả…
Mấy lời nói vô tình của đứa bé làm cho Trương Sinh tin là vợ mình ngoại tình, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến người vợ trong tay kẻ khác, cơn ghen tự dưng bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: “Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì nó ở nhà lại như thế kia”. Về đến nhà Trương Sinh mắng nhiếc vợ tàn tệ: “Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng đi vắng, tối rước trai về nhà”. Chàng mắng dữ dội nhưng không bảo là tự miệng con nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi: “Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một dạ, đâu có hư thân mất nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan cho thiếp”. Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối vũ phu để tra khảo vợ. Hàng xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can ngăn, nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được lòng mọi người che lấp tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy con khóc nức nở, rồi nhân lúc chồng sang nhà hàng xóm, chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước.
Bi kịch trong Vợ chàng Trươnglà Vũ Thị Thiết tìm đến cái chết trong sự bế tắc về tinh thần. Do cơn hoảng loạn không kiềm chế được, nên nàng đã đâm đầu xuống bến Hoàng Giang trong trạng thái tâm lí hoàn toàn vô t...
Giống:
+Nội dung: Đều bắt nguồn từ truyện cổ tích, có những chi tiết giống truyện cổ tích và được kể lại 1 cách sống động hơn:
-Mối quan hệ vợ chồng:
+)Chàng Trương hay ghen tuông
+)Vợ hết lòng yêu thương mẹ chồng
-Bi kịch: Vì tính ghen tuông vợ chàng trương phải tự vẫn
+Nghệ thuật
-Xây dựng hình ảnh cái bóng

Cây thóng |
Cây dương xỉ |
Cây thông thuộc Hạt trần |
Cây dương xỉ thuộc nhóm Quyết |
- Thân gỗ phân nhánh nhiều tạo thành tán cây. - Lá đa dạng. - Có mạch dẫn. |
- Thân rễ, - Lá đa dạng, lá non thường cuộn tròn ở đầu như vòi voi. - Có mạch dẫn |
- Sinh sản bằng hạt - Cơ quan sinh sản là nón + Nón đực : mang các túi phấn chứa nhiều hạt phấn. + Nón cái : mang các lá noãn, noãn nằm trên lá noãn hở. |
- Sinh sản bằng bào tử. - Túi bào tử họp thành ổ túi nằm ỏ mặt dưới lá. |
- Sau thụ tinh noãn phát triển thành hạt (hạt trần) - Chưa có hoa. quả. |
- Bào tử được hình thành trước khi thụ tinh. - Bào tử phát triển thành nguyên tán. |

tối cổ:lông nhiều hơn,ngu hơn,lùn hơn
tinh khôn:cao hơn,thông minh hơn

sự khác nhau :
- vô cơ : trẻ em < người già-
- hữu cơ : trẻ em > người già

1)Phụ lưu là một dòng sông đổ nước vào dòng sông chính hoặc hồ nước . Vùng đổ nước này gọi là cửa sông, cũng là nơi kết thúc của phụ lưu đó, còn điểm chung với sông chính thì gọi là điểm hợp lưu.
Chính lưu :sông tách ra khỏi sông chính ở vùng trung lưu của sông chính và nếu sau đó nó lại quay về nhập vào sông chính thì vẫn được gọi là chi lưu, như trong trường hợp gần các vùng bồn địa nội lưu hay trong trường hợp các phụ lưu tách đôi ra khi gần với chỗ hợp lưu của nó vào sông chính.
2) Lợi ích:
Cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Phát triển giao thông đường thuỷ.
Cho phép khai khác các nguồn lợi thuỷ sản.
Tạo môi trường nuôi trồng thuỷ sản.
Điều hoà nhiệt độ.
Tạo cảnh quan mội trường.
...
Sông ngòi chỉ mang lại 1 khó khăn duy nhất là chia cắt địa hình nên khó khăn cho GTVT ngoài ra không mang lại bất kì tác hại nào khác đến hoạt động sản xuất và đời sống của con người chỉ có hoạt động sản xuất của con người tác động đến sông ngòi làm cho mực nước dâng cao gây ngập lụt, hay thiếu nước vào mùa khô, tài nguyên thuỷ sản bị cạn kiệt.
+ Phụ lưu là sông nhỏ đổ nước vào sông chính
+ Chi lưu là các sông thoát nước đi cho sông chính
Sông là dòng chảy thường xuyên , tương đối ổn định trên bề mặt lục địa
Lợi ích : làm thủy điện , thủy lợi , giao thông , cung cấp phù sa , du lịch
Tác hại : sông dâng cao vào mùa lũ gây lũ lụt thiệt hại về nhà cửa , con người

Thu nhập của gia đình thành phố và nông thôn có sự khác nhau. Thu nhập của gia đình thành phố chi tiêu chủ yếu bằng tiền. Thu nhập của nông thôn chủ yếu bằng hiện vật.

+ Sự khác nhau giữa dác và ròng:
Dác | Ròng |
- Là lớp tế bào sáng nằm bên ngoài - Gồm các tế bào sống: tế bào mạch gỗ - Vận chuyển nước và muối khoáng |
- Lớp gỗ màu tối nằm bên trong - Gồm tế bào chết có vách dày - Nâng đỡ cây |
+ 1 số cây thân rỗng mà vẫn sống được vì: phần thân cây bị mất đi làm cây rỗng có thể là phần ròng chỉ gồm các tế bào chết có vai trò nâng đỡc cây, còn phần tế bào mạch gỗ và mạch rây bên ngoài của thân cây vẫn còn: đảm nhận được chức năng vận chuyển các chất trong cây làm cho cây vẫn sống được
*Sự khác nhau giữa dác và ròng:
-Ròng:
+Là phần nằm ở bên trong, dày.
+Có màu sẫm hơn.
+Cấu tạo bằng các tế bào gỗ già chết nên chắc và cứng rắn.
=>Chức năng: Nâng đỡ cho cây.
-Dác:
+Là phần nằm ở bên ngoài, mỏng.
+Có màu nhạt hơn.
+Cấu tạo bằng các tế bào gỗ còn non nên không cứng lắm.
=>Chức năng: Vận chuyển nước và muối khoáng từ rễ lên lá.

nhờ bạn giúp mình câu này: Tìm x, y biết:(x+3).(y-5)=38
https://hoc24.vn/hoi-dap/question/217387.html
=>Tham khao nhes