Thuyết minh về cây vú sữa, mít, dừa, xoài , tre
HelpMe! Mik cấn gấp giúp mik
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trung bình cộng của số cây đó là:
\(\left(12+13+5+22\right):4=13\left(\text{cây}\right)\)
Đáp số: 13 cây.
Tíck nha Đoraemon!
Tham khảo!
https://mobitool.net/top-10-bai-van-bieu-cam-ve-loai-cay-em-yeu.html
Bạn bôi đen dòng chữ ở trên rồi mở nhé!
Nhắc đến nước Nga, chúng ta nhớ ngay đến thủ đô Moscow với những hàng bạch dương “sương trắng nắng tràn”. Nhắc đến Nhật Bản, ta lại nghĩ tới thành phố Tokyo tràn ngập hoa anh đào. Còn với dải đất hình chữ S, có thể nói cây tre đã trở thành biểu tượng cho con người và mảnh đất Việt.
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
(“Tre Việt Nam”- Nguyễn Duy)
Chẳng biết tre có từ bao giờ mà trong những câu thơ, Nguyễn Duy cũng không thể biết được. Chỉ biết: từ thuở xa xưa, cùng với làng bản, xóm thôn, cùng với cuộc sống con người Việt, tre đã xuất hiện rồi. Ở trên khắp những vùng quê Việt Nam, không khó để có thể bắt gặp và quan sát những dãy tre làng.
Tre là loại thân rỗng, chia thành nhiều đốt, cùng họ với nứa, trúc, mai, vầu, … Tre mang dáng thẳng, vươn cao từ 10-18 m. Ngọn tre cong vút, lá tre mỏng và sắc, gân lá song song như lá lúa, màu xanh đậm. Tre thường sống ở nơi đất đai khô cằn, kém màu mỡ với chiếc rễ tre- loại rễ chùm, cứng, ăn sâu vào lòng đất để hút chất dinh dưỡng tối đa đi nuôi cây. Chính vì vậy, trong bài thơ của mình, nhà thơ Nguyễn Duy còn viết:
“Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”
(“Tre Việt Nam”)
Dưới gốc tre còn có những lớp măng non nhọn hoắt, được bao bởi những lớp bẹ dày, cứng ở ngoài. Tre mới mọc, mọc thành từng khóm, từng lũy xếp sát với nhau. Có phải vì “thương nhau” mà “tre chẳng ở riêng” như Nguyễn Du nói không?
Tre trên khắp đất nước Việt Nam rất đa dạng và phong phú nhưng chủ yếu phân theo ba loại chính.
Loại đầu tiên là những tre xanh được trồng nhiều ở các làng quê, dáng thẳng, vươn cao cho bóng mát. Tre đằng ngà là loại tre có thân màu vàng óng. Truyền thuyết kể lại rằng: ngựa sắt của Thánh Gióng phun lửa làm cháy những bụi tre để lại màu ngả vàng như thế. Còn tre gai là loại tre nhỏ, thân thấp, có nhiều gai rất thuận tiện dùng để làm hàng rào, hàng dậu.
Cây tre từ lâu đã trở nên gần gũi và ý nghĩa đối với cuộc sống mỗi người dân Việt Nam. Trong đời sống hằng ngày, tre dùng để làm nhà cửa, làm giường, làm bàn ghế. Ngay cả những chiếc rổ rá cũng được làm rất rỉ mỉ và tinh tế bằng tre. Ngày nay, tre còn dùng làm đồ thủ công mỹ nghệ như những chiếc giỏ, chiếc nàn hay những bộ bàn ghế đầy tinh xảo.
Trong lao động, tre dùng làm chiếc cối xay thóc để làm ra những hạt gạo thơm ngon, trắng ngần. Đúng như nhà văn Thép Mới đã viết: “Cối xay tre nặng nề quay, Từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.” Tre làm thành cán cày, cán cuốc của cha, là đòn gánh theo mẹ vào mỗi buổi đi chợ. Trong chiến đấu, gậy che, chông tre chính là vũ khí đặc biệt để chống quân thù; “Tre xung phong vào xe tăng đại bác.
Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre đi vào không gian sinh hoạt, cùng con người chiến đấu và chiến thắng oanh liệt mà còn đi vào lịch sử với những câu chuyện li kì của bà và của mẹ. Trong truyền thuyết, khi gậy sắt bị gãy, Thành Gióng đã nhỏ tre để quét sạch lũ giặc Ân độc ác ra khỏi bờ cõi. Rồi năm 938, cũng chính nhưng cây tre ấy, đều được dùng làm cọc đánh xuống lòng sông Bạch Đằng khiến cho quân Nam Hán tan tác.
Sau những năm tháng chiến đấu hào hùng, tre lại trở về với cuộc sống đời thường, cùng vui buồn sinh hoạt với mọi người. Những điếu cày tre từ bao giờ chính là niềm vui của những cụ già, là niềm vui của đám trẻ với những que truyền bằng tre. Và tất nhiên không thể thiếu được những chiếc sáo diều vi vu trên bầu trời những đêm hè của lũ trẻ nghịch ngợm trong làng, những chiếc nôi tre đưa em thơ vào giấc ngủ êm đềm.
Không chỉ có những công dụng và lợi ích trong cuộc sống sinh hoạt, tre còn mang rất nhiều ý nghĩa riêng. Từ lâu, tre đã gắn bó với con người đời đời kiếp kiếp: từ lúc lọt lòng trong chiếc nôi tre đến khi trở về với đất mẹ trên những chiếc chõng tre; tre vẫn luôn bên người. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, tre đã cùng con người lao động dựng xây, chiến đấu và sản xuất. Vì thế tre chính là biểu tượng cho người Việt Nam cần cù chịu khó, kiên cường, bất khuất.
Những búp măng non còn là biểu tượng cho thiếu niên nhi đồng đầy sức sống vươn lên. Rồi tự bao gờ, tre đã bước vào những câu thơ, lời hát của những nghệ sĩ để rồi trở thành những câu ca bất hủ. Tre đi vào những bức họa đồng quê, chỉ lặng lẽ đứng một góc nhưng lại cho ta cảm giác yên bình, tĩnh tâm và hạnh phúc. Vì vậy, dù có nơi đâu, lúc nào đi chăng nữa, chỉ cần nơi đâu có những rặng tre, những búp măng xanh thì đều có tâm hồn và vẻ đẹp, nhân cách Việt.
Ngày nay, khi cuộc sống ngày càng hiện đại, những chiếc giường tre, chõng tre đã dần bị thay thế bởi những thiết bị hiện đại, những lũy tre nơi làng quê cũng thưa thớt dần. Nhưng sẽ có một điều mãi mãi không thay đổi: vẻ đẹp và những giá trị tâm hồn cao quý của con người, mảnh đất này.
Tham khảo:
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng, to lớn của công nghệ trong cuộc sống, nó không chỉ làm cho người nông dân đỡ vất vả hơn mà còn tạo ra những giống cây mới cho năng suất và chất lượng cao hơn. Một trong những giống cây được cải tạo năng suất đáng kể đó chính là cây lúa nước.
Cây lúa là loại lương thực vô cùng phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người Việt Nam. Nó gắn bó với người dân ta từ lâu đời, là thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày và cũng là cây lương thực xuất khẩu hàng đầu của nước nhà. Lúa nước là loại cây thân cỏ, ưa nước, gieo trồng trên đất phù sa và có nhiều giống loại khác nhau. Chu kì sinh trưởng của chúng trung bình là bốn tháng, không quá dài nên bà con nông dân có thể tranh thủ thâm canh hai vụ một năm để tăng năng suất.
Một cây lúa nước trưởng thành trung bình có độ cao 80cm, toàn thân màu xanh và rỗng hoàn toàn ở bên trong. Lá lúa dài, hình lưỡi liềm nhỏ bao quanh thân lúa. Rễ cây thuộc loại rễ chùm nên không cắm quá sâu xuống đất điều này đòi đất phù sa phải đủ màu mỡ để cung cấp dinh dưỡng cho cây. Từ ngọn của cây lúa, đến thời điểm chín muồi sẽ trổ bông rồi nặng dần xuống thành hạt. Hạt lúa mọc thành chùm, khi còn non thì mềm mại, có màu xanh thoảng hơi sữa còn được người dân gọi là đòng đòng, khi già nó chuyển thành màu vàng, nặng dần và chúi đầu xuống phía dưới. Khi bấm vào hạt lúa thấy cứng và các hạt tròn, mẩy đều như nhau màu vàng ươm thì cũng là lúc lúa được thu hoạch.
Để có được những hạt lúa căng tròn người ta mang những hạt thóc giống được tuyển chọn kĩ càng đi ngâm trong nước ấm và ủ thóc trong thời gian thích hợp. Sau khi hạt thóc nảy mẩm đủ tiêu chuẩn, ta mang chúng đi gieo xuống những luống đất được chuẩn bị sẵn từ trước. Sau khoảng một tháng, từ những hạt mầm đó sẽ nảy nở thành những cây mạ xanh mướt, tuy nhiên chúng lại ở rất sát nhau nên không thể sinh trưởng thật tốt. Lúc này, người nông dân nhổ những cây mạ đó lên và đem đi cấy xuống những mảnh ruộng phù sa nhiều nước được làm đất kĩ. Độ cao của cây mạ thích hợp để cấy dài khoảng một gang tay người lớn. Người ta cầm bó mạ và lấy khoảng 4 - 8 cây, tùy tay người cấy cắm xuống ruộng đất phù sa thẳng hàng ngang và dọc, mỗi khóm cách nhau trung bình từ 20 - 30cm. Cây lúa non sẽ thích nghi dần với mảnh đất mới và hút phù sa từ đó để lớn lên, phát triển thành cây lúa và ra bông. Mỗi hạt lúa mang trong mình một giọt sữa thơm tho, tinh túy của trời đất, giọt sữa ấy đông đặc lại dần trở thành những hạt gạo. Khi những hạt lúa trở nên chắc chắn (bấm tay vào cứng và khó vỡ), vỏ bên ngoài màu vàng ươm thì cũng là lúc người nông dân thu hoạch.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của cây lúa nước trong đời sống từ xưa đến nay. Nó không chỉ là nguồn lương thực nuôi sống chúng ta mà còn làm nên nền kinh tế nước nhà. Cho dù mai sau đất nước có phát triển hiện đại như thế nào nhưng cây lúa nước vẫn mãi giữ vị trí quan trọng trong lòng mỗi người dân.
????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????
nani
w
whattttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttttt
Nhóm cây nào dưới đây toàn cây rễ cọc hoặc cây rễ chùm?
A/ Lúa, ngô, tre , dừa, cọ B/ Rau cải, sả, hành, ớt, chanh
C/ Cam, bưởi, xoài, mít, nhãn D/ Hoa phong lan, hoa hồng, cúc, hoa nhài,
Hoa quả là những món ăn rất tốt cho sức khỏe của chúng ta. Trên đất nước Việt Nam xinh tươi này, có vô vàn những loại quả tốt: mận, lê, táo, dưa hấu,… Loại quả nào cũng tốt cho con người và những cây hoa quả như vậy đã thân thuộc với chúng ta từ lâu và đặc biệt phải kể đến một loại cây ăn quả đó là cây xoài.
Xoài là một loại cây ăn quả nhiệt đới, vẫn chưa biết chính xác nguồn gốc của loại cây này nhưng có tài liệu cho rằng đây là một loại cây xuất phát từ miền Đông Ấn Độ và các vùng giáp ranh như là Myanma, Việt Nam, Malaysia. Cây xoài có phần rễ mọc sâu, bám chắc, thường tập trung ở phần đất cách gốc khoảng hai mét và thích nghi với vùng đất cát ẩm ướt. Cây xoài là cây thân gỗ lớn, mọc khỏe, chắc, cao, màu nâu sẫm. Lá mọc đơn, nguyên, mọc so le, phiến lá xoài có hình thuôn mũi mác, nhẵn, thơm, có màu xanh tươi tốt. Xoài nở hoa rất đẹp, hoa hợp thành chùm kép ở ngọn cành, chùm hoa dài khoảng 30cm, có 200-400 hoa tủa ra trên cành xen vào những quả xoài chưa kịp chín. Mỗi chùm thường có 2 loại hoa: hoa lưỡng tính và hoa đực. Hoa xoài nhỏ li ti, có màu vàng với búp nụ màu xanh. Mỗi hoa có năm lá đài nhỏ, có lông ở mặt ngoài. Có lẽ, phần đáng được chú ý đến nhất ở cây xoài là quả xoài. Quả xoài có ba lớp, lớp vỏ mỏng bên ngoài khi ăn có thể gọt bỏ hoặc ăn không cần thiết vì phần này vẫn có thể ăn được, phần thịt bên trong dày và hạt trắng hình bầu dục ở trong cùng. Khi chưa chín, ở trên cây, xoài có màu xanh của lá cây, khi ăn có vị chua, chua nhiều hay chua ít tùy thuộc và mức độ sắp chín của trái xoài. Nhưng đến khi xoài đã chín, vỏ ngoài của xoài từ màu xanh đã chuyển thành màu vàng tươi bắt mắt, khi ăn không còn vị chua mà vừa ngọt vừa mát. Xoài một năm có thể ra độ ba đến bốn đợt tùy theo giống, tuổi thọ của cây, thời tiết và tình hình dinh dưỡng cũng như sự chăm sóc tưới tắm của con người. Xoài có rất nhiều loại giống: Xoài cát Chu, Xoài cát Hòa Lộc, Xoài Tứ Quý, Xoài Tượng, Xoài Thanh Ca, Xoài Tím(loại xoài có vỏ màu tím),…
Cây xoài trong đời sống con người đã trở ên gần gũi và không thể thiếu. Xoài xanh có thể làm xoài dầm, một món hoa quả ngon. Khi ăn xoài xanh cũng có tác dụng chữa viêm họng và đặc biệt đây là một thức quả mà phụ nữ thai nghén những tháng đầu rất ưa thích khi thèm của chua. Còn xoài chín được dùng nhiều hơn, có tác dụng bổ não, có lợi cho người làm việc trí óc, suy nhược thần kinh, giúp tăng cường sức đề kháng, chống viêm, phòng ngừa ung thư, giảm béo, cải thiện hệ tiêu hóa, giúp hạ cholesterol máu, hạ huyết áp, phòng bệnh mạch vành,…nên các chị em phụ nữ vẫn thường chọn cho gia đình những trái xoài chín khi đi chợ. Vào mùa hè, khi dầm xoài chín ra làm sinh tố thì đúng là không còn gì ngon lanh bằng, vừa mát mẻ, vừa bổ dưỡng. Ta vẫn hay thấy quả xoài xuất hiện trong mân ngũ quả ngày tết như một biểu tượng về sự đủ đầy no ấm. Ngoài ra vỏ thân cây xoài có thể dùng để chữ ho, sưng cổ họng, đau răng, tẩy giun sán, khử trùng, lá xoài có thể dùng để chữ viêm da, viêm họng,…
Tuy là một loại quả tốt nhưng nếu sử dụng quả xoài quá nhiều cũng có một số những hạn chế nhất định ví dụ như là tiêu chảy, nổi nhọt, sưng mủ. Cần lưu ý rằng không ăn xoài, nhất là xoài xanh vào lúc đói, dễ bị cồn ruột, người bị sốt, có vết thương thì không nên ăn xoài chín sẽ gây nên những hậu quả đáng tiếc.
Cây xoài đã trở thành một loại cây rất quen thuộc với chúng ta, mang lại cho con người rất nhiều những lợi ích đáng kể. Trên đất nước mình không chỉ cây xoài mà còn rất nhiều những loại cây khác cũng rất có giá trị như vậy, biết được điều này, ta càng thấy tự hào vì non song tươi đẹp.
I, MỞ BÀI
- Dẫn dắt giới thiệu vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về cây xoài.
II, THÂN BÀI
* Nguồn gốc và xuất xứ của cây xoài
- Không ai rõ ràng thời gian cây xoài xuất hiện trên thế giới, có rất nhiều giả thuyết đặt ra về nguồn gốc của loại cây này.
- Người ta thống nhất cho rằng, cây xoài có nguồn gốc từ Nam và Đông Nam Á, gồm các nước Ấn Độ, Myanmar… bởi người ta đã tìm ra các mẫu hóa thạch tại các nước này và xác định chúng nó niên đại khoảng 25 triệu đến 30 triệu năm trước.
* Hình dáng và các bộ phận của cây xoài
- Rễ cây: Là rễ cọc, ăn sâu vào lòng đất, đặc biệt là vùng đất cát. Rễ cọc giúp ăn sâu, khiến cây dễ dàng sống được ở những vùng có mạch nước sâu khiến cây dễ thích nghi.
- Thân cây: Thân gỗ rất cứng và chắc. Cây cao khoảng từ 10 đến 20m, thân cây màu nâu hơi xù xì, giống như nhiều loài cây ăn quả khác như vải, nhãn, mít…
- Lá cây: Màu xanh sẫm, gân lá nổi rõ ở mặt dưới. Lá hẹp và nhỏ, hình mũi mác. Mặt lá khá nhẵn và có mùi thơm nhẹ. Các lá xoài thường mọc so le nhau.
- Hoa xoài: Nhỏ li ti, mọc rất nhiều và mọc thành từng chùm. Hoa có màu vàng nhạt, các chùm mọc trên các cành nhỏ so le nhau. Hoa thường ra vào mùa xuân, có mùi thơm nhàn nhạt rất dễ chịu. Những chùm hoa xoài rất khó thấy, thường ẩn mình sau tán lá, bởi vậy phải nhìn thật kĩ mới có thể nhìn ra được.
- Quả xoài: Có hình bầu dục, phần đầu chỗ cuống hơi cong cong, còn phần đuôi hơi nhọn. Khi trái xoài còn non có màu xanh, khi chín có màu vàng sáng hoặc màu vàng sậm tùy theo từng loại xoài. Trên lớp vỏ có những chấm cát bé li ti. Bên trong lớp vỏ là phần thịt xoài, mềm hay cứng, chua hay ngọt tùy thuộc rất nhiều vào đất, thời tiết và giống cây. Bên trong nữa là phần hột xoài. Hột xoài rất cứng, nhỏ hay to tùy vào giống.
* Phân loại
- Xoài cát: Loại xoài ngon nhất. Trái rất nhỏ, thịt thơm và ngọt, màu vàng sẫm, các chấm cát li ti rõ ràng trên vỏ. Hạt dẹp và nhỏ.
- Xoài tứ quý: Trái nặng khoảng hơn 300g, vỏ rất mỏng và trơn láng. Thịt xoài ngọt, thơm, hạt nhỏ.
- Xoài xiêm: Thịt xoài vàng, hơi dẻo. Vỏ dày, mịn. Giống xoài này cho năng suất cao.
- Xoài tượng, xoài thanh ca: Xoài này không ăn chín mà được trồng để ăn lúc còn xanh. Ăn giòn và hơi chua.
* Giá trị của cây xoài
- Giá trị dinh dưỡng: Có nhiều chất dinh dưỡng cung cấp cho cơ thể con người. Vỏ xoài có tác dụng chữa đau răng, viêm lợi. Vỏ hoặc hột xoài được dùng để làm thuốc chữa một số bệnh dân gian. Thịt xoài được sử dụng rất nhiều trong việc làm bánh, sinh tố, đồ uống… Tuy nhiên, xoài có tính nóng nên không ăn quá nhiều.
- Giá trị kinh tế: Xoài đem lại nguồn lợi kinh tế cho người trồng, đồng thời là sản phẩm xuất nhập khẩu của nhiều nước trên thế giới. Hàng năm, lượng tiêu thụ xoài thường khá lớn.
* Cách chăm sóc và gieo trồng
- Yếu tố lựa chọn giống ban đầu, lựa chọn đất là rất quan trọng.
- Cần chú ý cung cấp nước và chất dinh dưỡng đầy đủ cho cây phát triển.
- Khi cây ra quả cần dùng túi bọc lại tránh bị sâu hay chim ăn làm hỏng.
III, KẾT BÀI
- Nêu cảm nghĩ của bản thân về cây xoài cũng như về giá trị của loại cây này.