K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản sau:        Nghe lời khuyên nhủ thong dong, Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang(1).        Rạng ra gửi đến xuân đường(2), Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia(3).        Tiễn đưa một chén quan hà(4), Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình(5).        Sông Tần(6) một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan(7).        Cầm tay dài ngắn thở than, Chia phôi...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

       Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang(1).
       Rạng ra gửi đến xuân đường(2),
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia(3).
       Tiễn đưa một chén quan hà(4),
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình(5).
       Sông Tần(6) một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan(7).
       Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.
       Nàng rằng: "Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
       Dễ lòa yếm thắm, trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng(8)!
       Đôi ta chút nghĩa đèo bòng(9),
Đến nhà, trước liệu nói sòng(10) cho minh.
       Dù khi sóng gió bất bình,
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi.
       Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
Lại mang những việc tày trời đến sau.
       Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
       Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi bữa này năm sau!"
       Người lên ngựa, kẻ chia bào(11),
Rừng phong(12), thu đã nhuốm màu quan san(13).
       Dặm hồng(14) bụi cuốn chinh an(15),
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
       Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
       Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

          (Truyện Kiều, Nguyễn Du, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, trang 120 - 122)

Vị trí đoạn trích: Sau khi thành thân, Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư - vợ cả, để trình bày về việc chàng đã cưới vợ lẽ. Đoạn trích trên tái hiện khung cảnh tiễn biệt giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều.

Chú thích:

(1) Hồi trang: Về quê.

(2) Xuân đường: Người cha.

(3) Ninh gia: Về thăm nhà.

(4) Chén quan hà: Chén rượu tiễn biệt.

(5) Xuân đình: Nơi sum họp, vui vẻ. Cao đình: Nơi từ biệt nhau (xuất phát từ câu thơ cổ: Cao đình tương biệt xứ, nghĩa là chỗ từ biệt nhau ở cao đình).

(6) Sông Tần: Sông ở đất Tần Xuyên, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.

(7) Dương Quan: Tên một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, tây bắc Trung Quốc.

(8) Dễ lòa ... khó lòng: Việc Thúc Sinh lấy Thúy Kiều làm vợ lẽ không thể nào giấu kín được.

(9) Đèo bòng: Vương vít tình duyên.

(10) Nói sòng: Nói thẳng, không quanh co, giấu giếm.

(11) Chia bào: Thường khi li biệt người ta hay nắm lấy áo nhau, thể hiện tình cảm quyến luyến.

(12) Phong: Một loại cây, đến mùa thu thì sắc lá hóa đỏ.

(13) Quan san: Quan ải, núi non, thường chỉ sự xa xôi, cách trở.

(14) Dặm hồng: Dặm đường đi giữa bụi hồng.

(15) Chinh an: Việc đi đường xa.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. Văn bản thuộc thể loại nào?

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong hai dòng thơ sau:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Câu 4. Cảm hứng chủ đạo trong văn bản là gì? Từ đó, em hãy đề xuất một nhan đề cho văn bản này.

Câu 5. Thúy Kiều đã dặn dò với Thúc Sinh những gì? Những lời dặn dò đó cho thấy Thúy Kiều là người phụ nữ như thế nào?

1
(4 điểm) Đọc văn bản sau:      (Lược phần đầu: Dì Diệu và chú Đức lấy nhau nhiều năm nhưng không có con vì việc cắt khối u buồng trứng đã khiến dì không thể tự sinh con. Dì bàn với chú Đức tìm người mang thai hộ. Chị Lành gánh nước thuê vì hoàn cảnh ngặt nghèo nên nhận lời giúp chú dì.)      Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:      -...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

     (Lược phần đầu: Dì Diệu và chú Đức lấy nhau nhiều năm nhưng không có con vì việc cắt khối u buồng trứng đã khiến dì không thể tự sinh con. Dì bàn với chú Đức tìm người mang thai hộ. Chị Lành gánh nước thuê vì hoàn cảnh ngặt nghèo nên nhận lời giúp chú dì.)

     Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:

     - Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè…

     Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp trong bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được: cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.

     Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa... Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu.

(Trích Làm mẹ, Tập truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ)

Chú thích:

- Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau, là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Giọng văn đậm chất Nam Bộ, kể về những cuộc đời éo le. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào tác phẩm, thấm đẫm tình của làng, tình của đất, của những con người chân chất hồn hậu.

- Tác phẩm Làm mẹ viết về nỗi bất hạnh của dì Diệu khi bị mất đi thiên chức làm mẹ. Qua đây nhà văn bộc lộ sự thấu cảm với tình mẫu tử của những người mẹ như dì Diệu, chị Lành.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 2. Hình tượng trung tâm của văn bản là gì?

Câu 3. Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu văn sau và nêu tác dụng của nó.

Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu.

Câu 4. Em có cảm nhận gì về nhân vật dì Diệu?

Câu 5. Viết đoạn văn ngắn (khoảng 3 - 5 câu) nói về một bài học sâu sắc mà em rút ra được sau khi đọc văn bản.

0
(4 điểm) Đọc văn bản sau:     Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

    Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư?

(Theo Nam Cao, Đời thừa)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy?

Câu 2. Trong đoạn trích, sự cẩu thả trong văn chương sẽ tạo nên những tác phẩm như thế nào?

Câu 3. Tìm và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán.”

Câu 4. Nhân vật Hộ trong đoạn trích là người thế nào?

Câu 5. Em có đồng ý với ý kiến “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...” không? Vì sao?

0
(4 điểm) Đọc văn bản sau:     Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến hết miền Nam rồi sang Campuchia đến năm 1989 mới về nước, sau ở lì Tây Nguyên thỉnh...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

    Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến hết miền Nam rồi sang Campuchia đến năm 1989 mới về nước, sau ở lì Tây Nguyên thỉnh thoảng mới về nhà.

    Cha tôi đọc báo, nghe đài, xem ti vi. Ông càng lo cho tôi, đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể... Suốt cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành thuộc tính cố hữu rồi.

    Tuy có ca thán về cha, nhưng chị Mai thương cha vô cùng. Cái dạo chị mới năm sáu tuổi, cha về phép. Một cái khung xe đạp, một con búp bê tóc vàng, vài mảnh vải cho vợ con; vậy mà cả nhà vẫn đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ. Cha rất quý con gái. Ngày ấy, gia đình tôi chưa chuyển lên Hà Nội ở. Chiều chiều, cha tôi dẫn con gái đi dọc triền đê nhìn đồng quê sông nước. Hình ảnh cha vận sắc phục nhà binh, đeo quân hàm đỏ chói, bàn tay to dầy thô dắt đứa con gái nhỏ bé lích chích đi tha thẩn, nhàn hạ, thanh bình trên triền đê đầy hoa cỏ may cứ đi theo chị tôi suốt tuổi thơ đến bây giờ. Nhưng, ám ảnh, sợ hãi nhất là khi cha khoác ba lô trả phép. Ngày ấy, bên chiến trường Campuchia đánh bọn Pôn Pốt vẫn đang ác liệt. Cha phải đi, bên ấy có nhiều việc đang chờ. Con gái và cha vừa ấm hơi, quen nhau thì cha đã ra đi. Cha không muốn mẹ đưa ra tận ga tàu, cha sợ những giọt nước mắt sụt sùi. Mẹ và chị tôi tiễn chân cha ra đầu làng. Cha âu yếm nhìn vợ, rồi ôm hôn con gái, cha bảo mẹ tôi: “Em và con về đi.”. Cha thả con gái xuống và quay lưng rảo bước, những bước chân dài đạp trên đá mạt rào rạo, vội vã, thỉnh thoảng quay lại vẫy vẫy tay. Bỗng chị tôi khóc thét lên và cùn cụt chạy theo cha. Cha tôi quay lại ôm choàng lấy con gái. Nước mắt chị tôi nhoen nhoét vào gương mặt dãi dầu từng trải của cha. Mẹ tôi bảo: “Hay anh ở lại, mai hãy đi.”. Cha tôi bảo: “Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào.”. Cha chuyền tay trao con gái cho vợ rồi quay gót. Lần này, bước chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại. Mẹ và chị tôi thầm thũi khóc nhìn bóng cha tôi cứ xa dần, mờ dần.

(Trích Cha Tôi, Sương Nguyệt Minh, theo https://isach.info/story.php)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo ngôi kể nào?

Câu 2. Xác định lời dẫn trực tiếp và lời người kể chuyện trong những câu văn sau:

Cha tôi bảo: “Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào”.

Cha chuyền tay trao con gái cho vợ rồi quay gót.

Câu 3. Câu văn “Lần này, bước chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại.” cho em cảm nhận gì về người cha trong đoạn trích?

Câu 4. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn sau.

     Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể... Suốt cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành thuộc tính cố hữu rồi.

Câu 5. Qua lời kể của nhân vật “tôi” về cách giáo dục của người cha - một người quân nhân, với những đứa con, anh/chị có đồng tình với cách giáo dục đó trong hành trình phát triển và trưởng thành của mỗi người hay không?

1
21 tháng 2

ĐỌC HIỂU 4,0 1 Người kể chuyện xưng “tôi” là dấu hiệu để xác định ngôi kể số một của đoạn trích. 0,5 2 Câu chuyện được kể theo điểm nhìn của nhân vật xưng “tôi” (người con trai) 0,5 3 -Nhấn mạnh được những lo lắng, phiền muộn của người cha và thể hiện được rằng người cha chăm lo cho gia đình - Tăng tính biêủ đạt, tính hấp dẫn cho lời văn Mỗi ý ghi 0,5 điểm 1.0 4 Nêu cảm xúc của các người con về người cha - Người em: khó chịu với cha vì bắt đi ngủ sớm, cảm thấy cha nghiêm khắc với con trai, không có kỷ niệm ấu thơ nào với cha. - Người chị: ca thán vì sự nghiêm khắc và tính kỷ luật của cha, thương cha vô cùng vì được chiều chuộng.. 1,0 5 Học sinh trình bày quan điểm của bản thân – Thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình (0,25 điểm) – Lý giải về quan điểm bản thân (0,5 điểm) – Bài học bản thân, bài học liên hệ (0,25 điểm) 1,0 II VIẾT 1 Viết đoạn văn nghị luận ( khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh người cha qua cảm nhận của người kể xưng“tôi”(người con) trong đoạn trích. 2.0 a.Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn.Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành. 0,25 b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Phân tích hình ảnh người cha qua cảm nhận của người kể xưng“tôi”(người con) trong đoạn trích. 0,25 c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo những nội dung sau: - Người cha thể hiện sự nghiêm khắc với con cái, có tính kỷ luật, kiên nhẫn …( đi ngủ sớm, gọi con dậy sớm tập thể dục, nghiêm khắc với con trai, nhẹ nhàng với con gái…) (0,25 điểm) - Người cha có lòng yêu thương sâu sắc đối với gia đình, bảo vệ, lo lắng cho con trong độ tuổi trưởng thành, mang trong mình những mâu thuẫn và khó khăn trong cuộc sống “Ông càng lo cho tôi, đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi 1,0 4 cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể…”(0,5 điểm) - Qua lời kể của người con với ngôn từ giản dị, ngôi kể số 1, điểm nhìn bên trong, giọng điệu khách quan đã cho thấy người cha, một quân nhân nguyên tắc nhưng rất giàu tình thương với gia đình.(0,25 điểm) d. Diễn đạt Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn 0,25 e. Sáng tạo Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. 0,25 2 Viết một bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ về việc xác lập mục tiêu trong cuộc sống. 4.0 a.Bảo đảm bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận Bảo đảm yêu cầu về bố cục và dung lượng (khoảng 500) chữ của bài văn. 0,25 b. Xác định đúng vấn đề nghị luận Trình bày suy nghĩ về việc xác lập mục tiêu trong cuộc sống. 0,5 c.Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng, trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng: *Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận. Nêu quan điểm của người viết về vấn đề đó.(0,25 điểm) *Thân bài - Giải thích: Mục tiêu là những điều mà chúng ta mong muốn có được trong một khoảng thời gian nhất định.(0,5 điểm) - Phân tích: + Đặt ra mục tiêu là việc quan trọng bởi mỗi người đều không ngừng nghỉ để đạt được vị trí mình mong muốn, từ đó có suy nghĩ và hành động phù hợp, cần thiết.(0,25 điểm) +Cần có những điều kiện và giải pháp để thực hiện và đạt được mục tiêu như: hiểu rõ điểm mạnh- yếu của bản thân, trang bị kiến thức, kỹ năng, thời gian, sức khỏe….(0,5 điểm) -Bình luận: + Xác lập mục tiêu là việc thiết yếu, có ý nghĩa lớn giúp mỗi người có động lực phát triển bản thân.(0,5 điểm) + Ngược lại nếu không xác lập mục tiêu dễ dẫn đến chông chênh, mất phương hướng trước cuộc sống(0,25 điểm) *Kết bài: Khái quát lại ý nghĩa của vấn đề, liên hệ với đời sống 2,5 5 thực tại, rút ra bài học cho bản thân.(0,25 điểm) Lưu ý: HS có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đao đức và pháp luật d. Diễn đạt Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản. 0,25 e. Sáng tạo Thể hiện

13 tháng 2

a, Một cô bé bán diêm nhà nghèo đang dở dẫm trong bóng tối

Danh từ: cô bé, diêm, nhà nghèo, bóng tối

Cụm động từ: đang dở dẫm

Cụm tính từ: nghèo

b, Suốt cả ngày em không bán được bao viên nào

Danh từ: ngày, bao viên

Cụm động từ: không bán được

c, Sáng hôm sau Tuyết vẫn phủ kín mặt đất

Danh từ: sáng, tuyết, mặt đất

Cụm động từ: phủ kín

d, Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa

Danh từ: giá rét, đêm giao thừa

Cụm động từ: đã chết

e, Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm hay không ai bố thí cho một đồng xu nào mang về nhất định cha em sẽ đánh em

Danh từ: nhà, bao diêm, đồng xu

Cụm động từ: không thể nào về, không bán được, không ai bố thí, sẽ đánh

13 tháng 2

Bạn ơi cụm mà

Thấy mấy bạn hỏi dạo này còn viết truyện gì nữa không , sao off hoài vậy , chờ đợi không có vui. Thì câu trả lời là có nhé nhưng mà dạo này pam hay bận nên chúng mình vẫn chưa thể đăng chap mới .Sau đây mời các bạn đọc câu truyện của tớ ,có tựa Ánh đèn phố cũ :333 ( mình đổi chủ đề liên tục luôn á , mong mọi người thông cảm nha :D )Trong một con phố nhỏ, nơi bóng tối bủa vây...
Đọc tiếp

Thấy mấy bạn hỏi dạo này còn viết truyện gì nữa không , sao off hoài vậy , chờ đợi không có vui. Thì câu trả lời là có nhé nhưng mà dạo này pam hay bận nên chúng mình vẫn chưa thể đăng chap mới .

Sau đây mời các bạn đọc câu truyện của tớ ,có tựa Ánh đèn phố cũ :333 ( mình đổi chủ đề liên tục luôn á , mong mọi người thông cảm nha :D )

Trong một con phố nhỏ, nơi bóng tối bủa vây tựa một chiếc lưới khổng lồ, cuộc sống vẫn lê bước nặng nề, chậm chạp như một cỗ xe già cỗi nghiến lên lớp đá lát đường đã nứt toác. Những mái nhà cũ kỹ, phủ đầy bồ hóng, nghiêng ngả vào nhau như những ông lão mệt mỏi, chống chọi với cơn gió buốt cắt da thịt.

Những khung cửa sổ lốm đốm bụi than phản chiếu một bầu trời xám xịt, lờ đờ như đôi mắt của những kẻ đã thôi hy vọng vào ngày mai. Dưới lòng đường, từng vũng nước đọng lại từ trận mưa rào hôm trước, đặc quánh bùn đất, phản chiếu bóng dáng xiêu vẹo của những con người vội vã, lầm lũi, như thể chỉ cần dừng lại một giây thôi, họ sẽ bị màn đêm nuốt chửng.

Gió rít qua những ngõ hẻm chật hẹp, hú lên như tiếng than khóc của một linh hồn bị bỏ rơi. Nó quất vào da thịt, để lại cảm giác buốt rát, không khác gì bàn tay khắc nghiệt của số phận. Không khí đặc quánh mùi ẩm mốc của rác rưởi mục ruỗng, mùi than cháy khét lẹt, mùi dầu cũ từ những hàng quán xập xệ, tất cả hòa quyện thành một thứ hương vị của đói nghèo – hăng hắc, nhức nhối, và không cách nào thoát ra được. Xa xa, một tiếng ho khan vang lên, khô khốc, dai dẳng, như thể chính nó cũng đã quen với sự tuyệt vọng.

Vậy mà, giữa bức tranh u ám ấy, vẫn có những tia sáng mong manh. Một quán trà cũ kỹ le lói ánh đèn dầu vàng vọt, nơi những kẻ giàu cùng tìm chút hơi ấm trong tách trà nhạt thếch. Một bếp lửa nhỏ bập bùng nơi góc đường, nơi người bán hàng rong vẫn kiên trì nướng bánh mì, dù biết phần lớn khách qua đường chẳng có nổi một xu để mua. Và đôi khi, ánh sáng ấy không đến từ một ngọn đèn, mà từ một điều gì đó mong manh hơn – ký ức.

Tôi chỉ đứng đó, lặng lẽ quan sát cô bé thu mình trong góc tường. Chiếc áo rách bươm trên người em chẳng đủ để che chắn khỏi cái lạnh cắt da. Đôi chân trần dính đầy bùn đất, đôi tay nhỏ bé siết chặt lấy nhau, cố giữ chút hơi ấm mong manh. Em không khóc, cũng chẳng van xin. Đôi mắt to tròn của em nhìn thế giới bằng ánh nhìn trống rỗng – ánh nhìn của một người đã bị lãng quên.

Tôi không biết điều gì đã khiến tôi dừng lại. Có lẽ là vì hình ảnh ấy quá quen thuộc – không phải với tôi của hiện tại, mà với tôi của những năm tháng đã qua. Tôi từng là một đứa trẻ như thế, ngồi co ro bên góc tường, khẽ run lên dưới cơn gió buốt. Tôi từng nhìn thế giới với ánh mắt ấy, một ánh mắt không còn mong chờ điều gì. Nhưng đâu đó trong ký ức, tôi vẫn nhớ một căn bếp cũ kỹ, một ngọn lửa nhỏ, một bàn tay đã từng chìa ra cho tôi một ổ bánh mì cứng ngắc nhưng là thứ ngon nhất tôi từng nếm.

Tôi cúi xuống, bàn tay khẽ siết chặt ổ bánh mì nguội lạnh. Nó cứng, vị hơi đắng vì đã để qua ngày, nhưng vẫn là thức ăn. Tôi biết mình cũng đang đói, nhưng rồi, tôi vươn tay, chìa ổ bánh mì về phía cô bé.

"Cầm lấy đi “tôi nói, giọng khàn khàn bởi cái lạnh và một thứ cảm xúc mà tôi không thể gọi tên.

Cô bé ngẩng lên nhìn tôi. Trong đôi mắt sâu thẳm kia, tôi không còn thấy một cái bóng mờ nhạt của đường phố nữa. Tôi thấy một con người. Một ai đó đã bị lãng quên quá lâu.

Và tôi bỗng tự hỏi: Liệu có ai từng nhìn tôi theo cách đó chưa?


7
13 tháng 2

hbth cảm ơn các bạn

13 tháng 2

hay quá!

(4 điểm) Đọc văn bản sau:       (Tóm tắt phần đầu: Nguyễn Sinh người Thanh Trì, diện mạo đẹp đẽ, tư chất thông minh, giọng hát ngọt ngào. Chàng sớm mồ côi cha, nhà nghèo nên học hành dang dở. Chàng làm nghề chèo đò. Vì say đắm giọng hát và vẻ ưa nhìn của chàng nên cô con gái một nhà giàu họ Trần đã đem lòng yêu mến, sai người hầu đem khăn tay đến tặng, dặn chàng nhờ người...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

      (Tóm tắt phần đầu: Nguyễn Sinh người Thanh Trì, diện mạo đẹp đẽ, tư chất thông minh, giọng hát ngọt ngào. Chàng sớm mồ côi cha, nhà nghèo nên học hành dang dở. Chàng làm nghề chèo đò. Vì say đắm giọng hát và vẻ ưa nhìn của chàng nên cô con gái một nhà giàu họ Trần đã đem lòng yêu mến, sai người hầu đem khăn tay đến tặng, dặn chàng nhờ người mai mối đến hỏi. Nguyễn Sinh nhờ mẹ bảo người mai mối đến nhà nàng nhưng bố nàng chê chàng nghèo nên không nhận lời, còn dùng lời lẽ không hay để mắng bà mối. Chàng phẫn chí bỏ đi xa để lập nghiệp; cô gái biết chuyện âm thầm đau khổ chẳng thể giãi bày cùng ai, dần sinh bệnh, hơn một năm sau thì nàng qua đời.)

      (1) Trước khi nhắm mắt, nàng dặn cha:

      - Trong ngực con chắc có một vật lạ. Sau khi con nhắm mắt, xin cha cho hỏa táng để xem vật đó là vật gì?

      Ông làm theo lời con. Khi lửa thiêu đã lụi, ông thấy trong nắm xương tàn, sót lại một vật, to bằng cái đấu, sắc đỏ như son, không phải ngọc cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa đập không vỡ. Nhìn kĩ thì thấy trong khối ấy có hình một con đò, trên đò một chàng trai trẻ tuổi đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát. Nhớ lại việc nhân duyên trước kia của con, ông chợt hiểu ra vì chàng lái đò mà con gái ông chết, hối thì không kịp nữa. Ông bèn đóng một chiếc hộp con, cất khối đỏ ấy vào trong, đặt lên giường của con gái.

      (2) Nguyễn Sinh bỏ nhà lên Cao Bằng làm khách của trấn tướng. Chàng vì hát hay nên được trấn tướng yêu quý. Hơn một năm sau, chàng dần dần có của nả, rồi lại mấy năm nữa tích cóp lại được hơn hai trăm lạng vàng. Chàng nghĩ: “Số vàng này đủ để chi dùng cho việc cưới xin”. Xong, chàng sửa soạn hành trang trở về. Đến nhà, chàng hỏi thăm ngay cô gái nọ. Được nghe tất cả đầu đuôi về nàng, chàng vô cùng đau đớn, vội sắm sửa lễ vật đến điếu nàng. Khi chàng làm lễ xong, bố cô có mời chàng ở lại dùng cơm. Chàng xin ông cho xem vật đã được cất giấu trong hộp con. Ông mở hộp lấy ra đưa chàng. Chàng nâng niu cầm lấy, lòng vô cùng xúc động, hai dòng lệ trào ra nhỏ xuống khối đá đỏ. Bỗng khối đá tan ra thành nước, giọt giọt đều biến thành máu tươi, chảy đầm đìa vào tay áo chàng. Chàng cảm kích mối tình của nàng, thề không lấy ai nữa.

(Trích Chuyện tình ở Thanh Trì, Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997, tr 424 - 426)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản?

Câu 2. Phát biểu chủ đề của văn bản.

Câu 3. Vì sao người cha lại ngăn cản mối hôn sự của chàng trai với con gái mình? Nhận xét về cách hành xử của người cha.

Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của chi tiết kì ảo trong đoạn (2).

Câu 5. Từ nội dung của văn bản, hãy trình bày suy nghĩ của em về khát vọng tình yêu thời phong kiến (khoảng 5 - 7 dòng).

0
(4 điểm) Đọc văn bản sau:        (Tóm tắt phần đầu: Từ Thức làm quan Tri huyện Tiên Du, nhân một buổi xem hội hoa mẫu đơn mà cứu giúp một người con gái đẹp. Vì tính ham thơ mến cảnh nên chàng đã từ quan mà chọn sống chốn nước biếc non xanh. Một hôm Từ Thức mải vãn cảnh mà lạc vào động tiên, gặp lại người con gái mà chàng đã cứu hôm đi hội, mới biết hóa ra cô gái đó...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau:

       (Tóm tắt phần đầu: Từ Thức làm quan Tri huyện Tiên Du, nhân một buổi xem hội hoa mẫu đơn mà cứu giúp một người con gái đẹp. Vì tính ham thơ mến cảnh nên chàng đã từ quan mà chọn sống chốn nước biếc non xanh. Một hôm Từ Thức mải vãn cảnh mà lạc vào động tiên, gặp lại người con gái mà chàng đã cứu hôm đi hội, mới biết hóa ra cô gái đó chính là nàng tiên Giáng Hương, con của bà tiên cai quản vùng núi Phù Lai, động tiên thứ 6 trong 36 động tiên bồng bềnh ngoài biển cả. Để báo đáp ơn cứu mạng trước kia, phu nhân đã tác hợp cho Từ Thức và Giáng Hương nên duyên vợ chồng trong sự chúc phúc của quần tiên.)

       Nhưng từ khi chàng bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng nhòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương nam, Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:

       - Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.

       Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:

       - Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?

       Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:

       - Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chỗ làng mây bến nước.

       Giáng Hương khóc mà nói:

       - Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về, nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.

       Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:

       - Không ngờ chàng lại thắc mắc vì mối lòng trần như vậy.

       Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:

       - Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình cũ kĩ.

       Rồi trào nước mắt mà chia biệt.

       Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thuở nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:

       - Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn tám mươi năm, nay đã là năm thứ năm niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi.

       Chàng bấy giờ mới buồn bực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên biển, dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.

(Trích Từ Thức lấy vợ tiên, Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, NXB Giáo dục, 1997, tr 259 - 260)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2. Khi trở về quê cũ, Từ Thức rơi vào tình huống như thế nào?

Câu 3. Nhận xét về không gian và thời gian nghệ thuật trong đoạn trích trên.

Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của một yếu tố kì ảo trong văn bản.

Câu 5. Hành động của nhân vật Từ Thức ở cuối tác phẩm gợi cho em những cảm nhận, suy nghĩ gì?

0
Đọc văn bản sau:      (Lược một đoạn: Đào Cảnh Long, hiệu là Vân Hiên cư sĩ, là một học trò nghèo sống vào cuối đời Lê Chiêu Thống, đức độ rộng rãi, tính tình chất phác, trọng danh nghĩa, chuộng khí khái. Năm Bính Thìn, vì nhà thiếu ăn, chàng phải đi dạy học thuê cho một nhà giàu.).      Ở chỗ dạy học, anh có nuôi một con chó già, sớm hôm chơi đùa với nó. Anh đi đâu, nó...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

     (Lược một đoạn: Đào Cảnh Long, hiệu là Vân Hiên cư sĩ, là một học trò nghèo sống vào cuối đời Lê Chiêu Thống, đức độ rộng rãi, tính tình chất phác, trọng danh nghĩa, chuộng khí khái. Năm Bính Thìn, vì nhà thiếu ăn, chàng phải đi dạy học thuê cho một nhà giàu.).

     Ở chỗ dạy học, anh có nuôi một con chó già, sớm hôm chơi đùa với nó. Anh đi đâu, nó cũng đi theo. Anh ngồi đâu, nó cũng đứng chầu bên cạnh. Anh đặt tên nó là Hàn Lư. Anh thường đùa với nó:

     - Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?

     Con vật gật đầu, ngoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.

     Mấy tháng sau, anh có việc phải trở về quê hương. Con chó phải ở lại. Nó quanh quẩn ra vào ở cửa phòng học. Ban ngày xua đuổi gà lợn, ban đêm phòng giữ kẻ gian. Nhiều khi bọn trẻ lãng quên, không cho ăn, tiếng sủa của con chó không còn được sang sảng nữa.

     Bấy giờ, trong làng có một phú ông họ Trương thấy vậy, thương hại, đem cơm đến cho ăn. Vừa bước vào cửa phòng học, liền bị con chó cắn phải. Ông trách mắng:

     - Hàn Lư! Hàn Lư! Vì thương mày đói lâu nay, nên ta đến đưa cơm cho mày ăn. Ta đâu phải là kẻ bất nhân! Mày tuy là giống vật, nhưng cũng biết suy nghĩ chút ít. Sao mày lại lấy oán trả ân?

     Ông chưa dứt lời, con vật chồm lên, nhe răng, giơ vuốt, nói bằng tiếng người:

     - Ngày chủ tôi đi có căn dặn tôi phải bảo vệ phòng học, trông nom bọn trẻ. Ngăn chặn kẻ ác, cấm đoán kẻ gian là trách nhiệm của tôi. Ông tới đột ngột, lại không có chủ tôi đón tiếp, thì bị cắn một miếng là đúng lẽ thôi! Thế mà còn trách mắng nặng lời gì nữa!

     Thấy con chó biết nói tiếng người, lại nói đúng lẽ, phú ông thầm nghĩ trong bụng nó là con vật kì lạ, ý muốn dụ dỗ, bèn nói:

     - Ông chủ của mày bản chất là thầy đồ nghèo. Mình hắn chẳng đủ miếng ăn, lấy đâu ra dành cho mày nữa. Bây giờ chi bằng mày bỏ chỗ tối, tới chỗ sáng, bỏ nhà nghèo, tới nhà giàu, tìm nơi no đủ, sung sướng suốt đời, có phải hơn không? Tội gì mà phải chịu khổ mãi?

     Con chó nói:

     - Ôi! Ông cũng là người, sao nỡ mở miệng buông lời như thế. Kẻ sĩ trung nghĩa, không vì cùng hay thông mà thay đổi ý chí, cho nên đến mùa rét mới biết rõ bách tùng tươi tốt hơn các cây khác, gặp gió mạnh mới hay cây đứng được vững chắc. Giống súc vật tuy khác với loài người, song vẫn có tính trời phú, biết giữ vững khí tiết đối với chủ của mình. Huống hồ ông chủ của tôi lại là một người luôn biết giữ lòng chân chính, sống nghề quang minh, trung để thờ vua, tín để kết bạn, hiếu với cha mẹ, hòa thuận họ hàng, trời sắp giao cho trách nhiệm quan trọng, cho nên bắt phải cùng khổ thiếu thốn, để trau dồi cho được thành công tốt đẹp đó thôi! Ông nói năng lung tung chẳng đúng gì, nên tôi tha thứ cho. Nếu không miệng này sẽ cắn cho một miếng nữa, chẳng ngần ngại gì! Hãy mau mau lui về, chớ để sau phải hối tiếc!

     Phú ông nghe xong, sửng sốt ngây dại, hiểu rõ con vật có nghĩa, không thể giành giật được, đành mang cơm ra về.

     Vài hôm sau, Đào Cảnh Long trở về, con chó mừng rỡ ra cửa đón tiếp, hình dáng tiều tụy khôn xiết. Nghe xóm giềng kể lại câu chuyện, Đào Cảnh Long cảm động lắm, ngậm ngùi lấy làm lạ mãi. Anh kiểm tra lại phòng sách, thì khóa cửa không di chuyển, giường chiếu còn y nguyên, đều là nhờ con chó hết sức canh giữ.

     Ôi! Con chó là loài súc vật, mà còn biết giữ lòng tiết nghĩa thờ chủ. Dù dùng lời đường mật dụ dỗ, cũng không thể lay chuyển lòng dạ sắt đá của nó. Huống gì con người ăn lộc nhà vua, nếu giữ vững đầy đủ cái lòng tiết nghĩa ấy để đền ơn nước, xông ra đánh giặc, giặc nào chẳng tan; cố sức giữ thành, thành nào chẳng vững…

     Than ôi! Sao mà lòng người chẳng còn được như xưa, thói đời đổi thay nhiều dạng? Lúc nước nhà yên vui thì bợ đỡ cầu vinh, lúc cuộc đời rối ren thì trở mặt đổi giọng, bán nước kiếm ăn, theo thời cầu lợi, không còn chút liêm sỉ, thật là quá quắt!

     Vì vậy, tôi cho rằng ở đời nhiều kẻ không bằng con Hàn Lư đấy! Nhân ghi lại mẩu chuyện để răn bảo người đời.

(Trích Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo, Phạm Quý Thích, in trong Truyện truyền kì Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn Quang Ân sưu tầm, tuyển chọn, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.320 - 332)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.

Câu 2. Xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 3. Nội dung của văn bản này là gì?

Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của yếu tố kì ảo trong văn bản.

Câu 5. Qua văn bản, em rút ra được những bài học nào?

0