K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 10 2019

Giải thích: Thơ ca bắt rễ từ lòng người: thơ là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm con người, nói lên tiếng nói cảm xúc của chính bản thân người sáng tác.

Nở hoa nơi từ ngữ: nghệ thuật. Ngôn ngữ góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm.

Sáng tỏ qua Thương vợ. Học sinh phân tích nội dung và những từ ngữ có giá trị biểu cảm cao trong bài thơ.

1. Hình ảnh bà Tú qua nỗi lòng thương vợ của ông Tú:

a/ Hai câu đề: Giới thiệu về công việc và công lao của bà Tú.

                                    Quanh năm buôn bán ở mom sông

                                    Nuôi đủ năm con với một chồng

- Câu 1: chứa đựng 3 thông tin

+ Bà Tú làm nghề buôn bán (gạo)

+ “Quanh năm” chỉ vòng thời gian tuần hoàn, ngày nối ngày, tháng tiếp tháng, năm tiếp theo năm, dường như không có lúc nghỉ.

+ “Mom sông” chỉ địa điểm kiếm sống, là phần đất nhô ra phía lòng sông, chênh vênh, nguy hiểm.

=> Bà Tú hiện lên trong câu thơ với biết bao khó nhọc, gian truân. Vòng quay vô kì hạn của thời gian đã cuốn bà vào cuộc mưu sinh đầy vất vả.

- Câu 2: Vai trò trụ cột gia đình của bà Tú.

+ “nuôi đủ” tức là đủ về số lượng 6 miệng ăn, chưa kể chính bà’; là đủ về thành phần – chồng và con; là đủ ăn, đủ mặc, đủ cả cho những thú vui của ông Tú.

+ “năm con với một chồng: cách đếm con đếm chồng rất đặc biệt. Tú Xương tách mình riêng ra, đặt mình sau con nghĩa là tự thấy hổ thẹn về cái vô tích sự của mình, ông tự thấy mình cũng là thứ con đặc biệt của bà Tú, mà một ông còn nặng gánh hơn cả năm đứa con thơ dại. Câu thơ thấp một nụ cười của ông chồng “dài lưng tốn vải”- nụ cười méo mó, đáng thương.

=> Tóm lại: 2 câu đề đã khắc họa thành công chân dung bà Tú – người vợ đảm đang, tháo vát, phải chịu nhiều vất vả, gian truân.

b/ Hai câu thực: Tô đậm hơn những khổ cực của bà Tú trong cuộc mưu sinh

                                         Lặn lội thân cò khi quãng vắng

                                         Eo sèo mặt nước buổi đò đông

- Phép đảo ngữ: đẩy “lặn lội” “eo sèo” lên đầu câu, tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong cuộc mưu sinh.

- Hình ảnh bà Tú được miêu tả qua phép ẩn dụ “thân cò” đầy ám ảnh, gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút đến tội nghiệp.

- “Khi quãng vắng”, “buổi đò đông”: bối cảnh làm việc đầy nguy hiểm bởi không người chở che, lại phải chen lấn, xô đẩy, bon chen nhọc nhằn.

=> Tóm lại: Câu 3,4, với hình ảnh ẩn dụ “thân cò”, phép đảo ngữ, từ tạo hình “lặn lội”, từ tượng thanh “eo sèo” đã  khắc sâu hơn nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau đó, ta còn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và biết ơn vợ sâu sắc của Tú Xương.

c/ Hai câu luận:

                                          Một duyên hai nợ âu đành phận

                                          Năm nắng mười mưa dám quản công                                 

- “Duyên”: quan hệ vợ chồng do trời định sẵn. “Nợ” là gánh nặng phải chịu, vợ chồng lấy nhau tốt đẹp là “duyên”, ngang trái là “nợ”.

- Thành ngữ và cách nói tăng cấp “một duyên hai nợ” “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà với ông Tú, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông Tú tự thấy mình là một gánh nợ trong suốt cuộc đời người vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách. Bà Tú coi đó như một lẽ thường tình, nào có kể công.

- Cách nói cam chịu “âu đành phận” “dám quản công” là ông Tú ngao ngán về chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể công thay cho bà vậy! Câu thơ như nén một tiếng thở dài não nề của chính người chồng.

TIỂU KẾT:

6 câu đầu khắc họa hình ảnh bà Tú  trong vất vả gian truân vẫn ngời lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống– người vợ, người mẹ đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương chồng con. Hình ảnh bà Tú vì thế vừa đáng thương lại vừa đáng trọng.

2. Hình ảnh ông Tú:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

                                      Có chồng hờ hững cũng như không!

a/ Một người biết yêu thương, quý trọng, tri ân vợ:

- Thể hiện qua lời kể, lời tính công cho vợ “nuôi đủ năm con với một chồng”.

b/ Con người có nhân cách – thể hiện qua lời tự trách:

- Cách nói “một duyên hai nợ”: coi mình là gánh nặng của vợ.

- Tiếng chửi ném vào cuộc đời và ném vào chính mình:

+“thói đời”: là những quy tắc hà khắc của chế độ phong kiến, phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, coi việc nhà, việc mưu sinh là của đàn bà, đàn ông không được đụng tay đến, khiến người chồng không được giúp đỡ vợ. Là thói vô tâm của các ông chồng. Là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những bất công vô lí của nó khiến ông cứ hỏng thi mãi, cứ làm kẻ ăn bám vợ, suốt đời đi thi mà chưa trả hết ơn nghĩa của vợ, để bà Tú mãi quẩn quanh trong cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền nơi bờ sông cuối bãi.

-> Tiếng chửi xuất phát từ tình yêu thương và lòng biết ơn vợ vô bờ bến.

=> Ông Tú cũng vừa đáng trọng vừa đáng thương.

4 tháng 1 2020

Để câu trả lời của bạn nhanh chóng được duyệt và hiển thị, hãy gửi câu trả lời đầy đủ và nên:

  • Yêu cầu, gợi ý các bạn khác chọn (k) đúng cho mình
  • Chỉ ghi đáp số mà không có lời giải, hoặc nội dung không liên quan đến câu hỏi
2 tháng 10 2019

I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"

1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;

2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.

3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.

Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

2 tháng 10 2019

hehe, "màu trắng tinh khôi" được dùng để tả bệnh viện, lạm dụng wa, hihi

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi khổ thơ 4  dòng và mỗi dòng có 7 chữ

Ngũ ngôn tứ tuyệt là thể thơ có 4 câu 1 khổ, mỗi câu 5 chữ

2 tháng 10 2019

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối, tức  chỉ có 28 chữ trong một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt phân nửa của thất ngôn bát cú. Được ra đời vào thời kỳ nhà Đường, có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Về cơ bản thể thơ này có 4 câu thơ trong mỗi bài và mỗi câu có 5 chữ. Trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ câu 2 với 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Nhìn chung thể thơ này khá giống với thể thất ngôn tứ tuyệt nhưng số câu ít hơn. Túc  chỉ cần bỏ hai câu cuối  ta đã có được thể thơ ngũ ngôn.

                                                             hk tốt :)))

bạn ấy thật đanh đá

anh ấy đg đá bóng

t ick cho mk nha bn

2 tháng 10 2019

Họ đang bàn về việc cất giữ chiếc bàn quý.

-----------động từ-------------------danh từ---

2 tháng 10 2019

TRUYỆN CỔ TÍCH

            I.KHÁI NIỆM VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH :

                 

1.Ðịnh nghĩa :

Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi , nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người.

          

 2.Phân loại truyện cổ tích :

Căn cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại, có thể chia truyện cổ tích ra làm 3 loại :Truyện cổ tích về loài vâtû.,truyện cổ tích thần kỳ,truyện cổ tích thế tục (cổ tích sinh hoạt).

           II.CÁC LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH :

                 

1.Truyện cổ tích về loại vật (truyện cổ tích động vật) :

            a.Nhóm đề tài nói về con vật nuôi trong nhà. Loại truyện này khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó (kế thừa các motif suy nguyên luận của thần thoại) (Trâu và ngựa, Chó ba cẳng ...).

             b.Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã, thường là các con vật sống trong rừng Nổi bật trong nhóm này là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó. Nhóm truyện này có ý nghĩa ca ngợi trí thông minh của người bình dân

             Nhìn chung, truyện cổ tích loài vật nêu lên những nhận thức, hiểu biết của con người về thế giới các con vật Một bộ phận truyện cổ tích loài vật có nhân vật là con người tham gia, một bộ phận khác nhân vật trong truyện hoàn toàn là các con vật. Những nhân vật chính thường là các con vật  gần gũi( trâu ,ngựa, bồ câu, sáo) các con vật trong rừng tuy hoang dã nhưng lại quen thuộc( hổ, khỉ, thỏ ,rùa...) các con vật ở vùng sông nước( sấu, cá...), Những con vật nầy ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống con người.

           Truyện dân gian về loài vật không chỉ có cổ tích mà còn có thần thoại và ngụ ngôn. Với ba thể loại trên, con vật đều được nhân cách hóa. Nhưng nếu nhân cách hóa trong thần thoại gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao của người cổ đại thì trong truyện cổ tích sự kế thừa tư duy thần thoại đó còn nhằm phản ánh xã hội loài vật. Ðối với truyện ngụ ngôn, tác giả dân gian đã có ý thức dùng câu chuyện  để diễn đạt ý niệm trừu tượng. Tuy nhiên , cũng cần lưu ý đến hiện tượng 2-3 mangcủa một số tác phẩm. Chẳng hạn, truyện Cóc kiện Trờivừa là thần thoại vừa là cổ tích loài vật, truyện Công và quạvừa là thần thoại, cổ tích vừa là ngụ ngôn.

           Trong kho tàng truyện dân gian Nam Bộ về loài vật, có thể tìm thấy thể loại truyền thuyết( Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ...). Ngoài ra, truyện loài vật còn bị hút vào chuỗi Truyện Bác Ba Phi (Cọp xay lúa).

           

2.Truyện cổ tích thần kỳ :

                   a.Ðặc điểm chung :

             Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người.Ðó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân , những quan hệ xã hội ( Tấm Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ...)Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là đời sống xã hội và số phận con người. Ðối tượng chính của sự miêu tả, phản ánh là con người. Nhân vật thần kỳ không phải và không thê ølà đối tượng chính ( Nếu vai trò của nhân vật thần kỳ lớn hơn con người thì truyện kể sẽ trở thành thần thoại ) Tuy nhiên,  cần nhớ rằng, lực lương thần kỳ cũng giữ một vai trò quan trọng trong sự diễn biến  và đi đến kết thúc của câu chuyện.

              Thế giới trong cổ tích thần kỳ là thế giới huyền ảo và thơ mộng ,có sự xâm nhập lẫn nhau giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Ở đó, con người có thể đi váo thế giới siêu nhiên, thần linh có thể xuất hiện trong thế giới trần tục.

              Do có sự giống nhau về cốt truyện nên có những kiểu truyện trong cổ tích thần kỳ (kiểu truyện Tấm Cám, Thạch Sanh).

         b.Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ :

                Nhân vật có tài đặc biệt, phi thường về một lãnh vực nào đó (bắn cung, lặn, võ nghệ, chữa bệnh ...).

                 Nội dung kể lại những cuộc phiêu lưu ly kỳ của nhân vật chính. Cuối cùng nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằng).

              c.Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh :

Nhân vật bất hạnh thường là người mồ côi, người em út, người con riêng, người đi ở, người xấu xí. Về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi. Về mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng (biểu hiện xu hướng hoài cổ) trừ nhân vật xấu xí mà có tài (  Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc ...). Nhân vật chính trải qua thử thách ( thử thách của các trở lực và có khi của nhân vật trợ thủ ) và đổi đời, được hạnh phúc dài lâu.

Bên cạnh nhân vật chính còn có nhân vật đế vương và lực lượng thần kỳ. Nhân vật đế vương có liên quan tới phần thưởng dành cho nhân vật chính  Lực lượng thần kỳ ( bên thiện ) là nhân vật trợ thủ, có khi phải thử thách nhân vật chính trước khi giúp đỡ.

    

 3.Truyện cổ tích thế tục :

          a.Ðặc điểm chung :

        Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ, nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu có,  thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích thần kỳ.

               Nhân vật trung tâm trong cổ tích thế tục thường chủ động và tích cực hơn so với nhân vật trung tâm trong cổ tích thần kỳ cho dù một số nhân vật bất hạnh thường gặp bế tắc và kết cục bi thảm . Bế tắc ở đây là bế tắc của hiện thực khác với cái đổi đờicủa mơ ước, ảo tưởng trong cổ tích thần kỳ.Nếu xung đột trong cổ tích thần kỳ được giải quyết trong cõi huyền ảo thì xung đột trong cổ tích thế tục được giải quyết theo logic của hiện thực. Chính vì vậy mà chàng Trương Chi phải ôm mối sầu xuống mộ còn anh Sọ Dừa hạnh phúc daì lâu .           

           b.Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh :

             Ðây là nhóm truyện kế thừa truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật bất hạnh nhưng không kết thúc có hậu (Trương Chi , Sự tích chim hít cô , Sự tích chim quốc...).

            c.Nhóm truyện có nội dung phê phán những thói xấu, những hành vi độc ác của con người : bất hiếu, khoe giàu, hách dịch...( Ðứa con trời đánh , Gái ngoan dạy chồng ...)

             d.Nhóm truyện về người thông minh :

                      Nhân vật dùng sự thông minh của mình để phân xử, ứng xử (Xử kiện tài tình , Em bé thông minh ...) Nhân vật dùng mẹo lừa để thể hiện trí thông minh (Cái chết của bốn ông sư, Nói dối như Cuội...).

              e.Nhóm truyện về người ngốc nghếch :

               Nhân vật chính ngốc nghếch thực sự, hành động máy móc, đôi khi gặp may mắn nên thành công, nhưng thông thường phải trả giá đắc cho hành vi ngu xuẩn của mình ( Chàng ngốc được kiện , Làm theo vợ dặn...)

               Nhân vật giả vờ ngốc để đạt được mục tiêu nào đó. Ðây là dạng đặc biệt của nhân vật thông minh Nhân vật chẳng những không ngốc mà còn đóng vai chàng ngốc thành công (Làm cho công chúa nói được).

                    III.NỘI DUNG TRUYỆN CỔ TÍCH :                         

1.Những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội :

                     Truyện cổ tích phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ biến trong toàn xã hội có giai cấp : xung đột giữa anh em trai (Cây khế, Hầm vàng hầm bạc),xung đột giữa chị em gái (Sọ Dừa, Chàng Dê).xung đột giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em cùng cha khác mẹ (Tấm Cám),xung đột giữa con ruột và con nuôi (Thạch Sanh),xung đột có tính bi kịch về hôn nhân, gia đình (Trầu cau, Ba ông Bếp, Sao hôm - sao mai, Ðá vọng phu).

                Những xung đột xã hội diễn ra bên ngoài gia đình được phản ánh muộn hơn, ít tập trung hơn. Do vậy ít tác phẩm tiêu biểu hơn (Cái cân thủy ngân, Của trời trời lại lấy đi , Diệt mãng xà).Một số truyện chứa đựng cả xung đột gia đình và xung đột xã hội (Thạch Sanh).

                   Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh được những xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa các tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và " bề dưới, đàn anh và đàn em.

                 Truyện cổ tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới, đàn em , lên án nhân vật " bề trên " , " đàn anh " (trong thực tế không phải người em, người con nào cũng tốt , người mẹ ghẻ , người anh trưởng nào cũng xấu) nghĩa là chống cái bất công, vô lý của xã hội phụ quyền nói chung (không đi vào từng số phận riêng) , thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả.            

2.Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân :

                 Truyện cổ tích  cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Nhân vật đàn em, bề dưới càng có đạo đức bao nhiêu, càng thật thà bao nhiêu thì càng thiệt thòi bấy nhiêu. Ðây là thực trạng của xã hội có giai cấp và có áp bức giai cấp.

                Tác giả dân gian , trong cổ tích , đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng. Họ nhờ vào lực lượng thần kỳ và nhân vật đế vương. Lực lượng thần kỳ là phương tiện nghệ thuật giúp tác giả dân gian đạt tới một xã hội lý tưởng , một xã hội có đạo lý và công lý. Lực lượng thần kỳ đứng về phía thiện, trợ giúp cho nhân vật đau khổ, đưa họ tới hạnh phúc. Trong quá trình đó, lực lượng thần kỳ cũng giúp nhân vật cải tạo xã hội. Nhân vật đế vương vừa là phương tiện nghệ thuật vừa là biểu tượng cho lý tưởng xã hội của nhân dân. Vua Thạch Sanh, hoàng hậu Tấm là hiện thân của một xã hội tốt đẹp , xã hội lý tưởng.

            

3.Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân :

                    Triết lý sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là chủ nghĩa lạc quan  .Tinh thần lạc quan trong cổ tích chính là lòng yêu thương quý trọng con người, từ đó mà yêu  đời , tin vào cuộc đời
( cho dù cuộc sống hiện tại đầy khổ đau , người ta vẫn luôn hướng về cuộc sống ngày mai tốt đẹp )

Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần lạc quan, nhưng không phải là biểu hiện duy nhất.

Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan. Nhân vật chính chết hoặc ra đi biệt tích. Nhưng cái chết hoặc ra đi của nó để lại niềm tin vào phẩm giá con người, niềm tin vào cuộc đời.

Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề đạo đức . Ðạo đức luôn gắn với tình thương , lấy tình thương làm nền tảng ( Ðứa con trời đánh , Giết chó khuyên chồng ...)

                    Niềm tin Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác vừa là triết lý sống lạc quan vừa là đạo lý, ước mơ công lý của nhân dân trong cổ tích.

                IV.MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH :

1. Cốt truyện:

        

Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện cổ tích là tính chất bịa đặt của câu chuyện kể. Cần nói thêm rằng, tính chất tưởng tượng của cốt truyện cổ tích ngoài nghĩa nói trên còn là tính khác thường" của sự kiện và hành động cổ tích.

Cốt truyện cổ tích thường được xây dựng theo một vài sơ đồ chung,có thể tìm thấy các kiểu cốt truyện quen thuộc như kiểudũng sĩ diệt đại bàng  cứu người đẹp, người xấu xí mà có tài...

2. Nhân vật

Nhân vật trong cổ tích là hành động của nó. Từ hành động của nhân vật ta có thể rút ra tính cách. Nhân vật cổ tích chưa được  cá thể hóa, tâm lý hóa.

Trong kho tàng truyện cổ tích có những kiểu nhân vật (nhân vật bất hạnh, nhân vật tài giỏi...).

3. Các yếu tố cố định

Ðó là những motif trong truyện cổ tích: Những chi tiết nghệ thuật có mặt trong nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc (vật báu mang lại hạnh phúc, Cái mâm thần, chém chằn tinh...). Các  motif nầy là những đơn vị hợp thành của cốt truyện.

4. Thế giới cổ tích

    Thế giới cổ tích có những yếu tố của thực tế hòa lẫn với yếu tố hư cấu tạo thành thế giới huyền ảo, thơ mộng. Ðể giải mã thế giới cổ tích thường người ta dựa vào dân tộc học.

2 tháng 10 2019

Bài làm:

  • Niêu cơm: đã hàng binh, ăn mãi không hết. có khả năng phi thường  quân giặc khâm phục. Qua đó thế hiện tấm lòng nhân đạo, tình yêu hòa bình của nhân dân ta. Tình người, lòng nhân đạo của Thạch Sanh không bao giờ vơi cạn.
  • Tiếng đàn: Cây đàn thần giúp nhân vật được giải oan, giải thoát (cứu công chúa, vạch mặt Lý Thông), khiến quân 18 nước chư hầu phải bãi binh. Tiếng đàn tượng trưng cho công lí và khát vọng hòa bình,  muốn giải quyết chiến tranh bằng hòa bình, bằng lẽ phải của chính nghĩa.
2 tháng 10 2019

TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK

1. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích không? Tác dụng của hình thức này?

Trả lời:

Dùng câu đố để thử tài nhân vật là chi tiết rất phổ biến trong truyện dân gian nói chung, truyện cổ tích nói riêng. Hình thức này có tác dụng sau:

-  Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất.

-  Tạo tình huống cho cốt truyện phát triển

-   Gây hứng thú hồi hộp cho người nghe.

2. Sự mưu trí thông minh của em bé trong truyện Em bé thông minh được thử thách qua mấy lần? Lần sau có khó hơn lần trước không? Vì sao?

Trả lời:

*  Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua bốn lần:

-    Lần 1: Đáp lại câu đố của viên quan - "Trâu cày một ngày được mây đường?".

-    Lần 2: Đáp lại thử thách của vua đối với dân làng - nuôi ba con trâu đực sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm để nộp cho vua.

-    Lần 3: Cũng là thử thách của vua - từ một con chim sẻ làm thành ba mâm cỗ thức ăn.

-   Lần 4: Câu đố thử thách của sứ thần nước ngoài - xâu một sợi chỉ mảnh qua ruột con ốc vặn rất dài.

*  Sự thử thách lần sau khó khăn hơn lần trước, vì:

-   Xét về người đố: lần đầu là viên quan, hai lần tiếp sau là vua và lần cuối cùng cậu bé phải "đốì đáp" với sứ thần nước ngoài.

-  Tính chất oái oăm của câu đố cũng tăng lên.

3. Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải những câu đố oái oăm? Theo em, những cách ấy lí thú ở chỗ nào?

Trả lời:

*   Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách rất thông minh để giải đố:

-   Lần 1: Đố lại viên quan.

-  Lần 2: Để vua tự nói ra sự vô lí, phi lí của điều mà vua đã đố.

-   Lần 3: Cũng bằng cách đố lại.

-  Lần 4: Dùng kinh nghiệm đời sống dân gian.

*  Những cách giải đố của cậu bé thông minh, lí thú ở chỗ:

-  Đẩy thế bí về phía người ra câu đố, lấy "gậy ông đập lưng ông".

-  Làm cho những người ra câu đố tự thấy cái vô lí, phi lí của điều mà họ nói.

-  Những lời giải đố đều không dựa vào sách vở, mà dựa vào kiến thức đời sống.

-   Làm cho người ra câu đố, người chứng kiến và người nghe ngạc nhiên vì sự bất ngờ, giản dị và rất hồn nhiên của những lời giải.

4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Em bé thông minh.

Trả lời:

Truyện Em bé thông minh có các ý nghĩa sau:

-  Ý nghĩa đề cao trí thông minh.

- Ý nghĩa mua vui, hài hước.

Câu chuyện cổ tích Em bé thông minh đề cao phẩm chất trí tuệ của con người, cụ thể là người lao động nghèo. Đó là trí thông minh được đúc rút từ hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú. Những người nông dân khi xưa tuy không mấy ai được cắp sách đến trường nhưng những kinh nghiệm, những kiến thức họ có được là nhờ có cuộc đời, trường học của họ là trường đời.



 

2 tháng 10 2019

Lời giải chi tiết

I. TÓM TẮT TRUYỆN EM BÉ THÔNG MINH

Có ông vua nọ, vì muốn tìm người hiền tài nên đã cho một viên quan đi dò la khắp cả nước. Viên quan ấy đến đâu cũng ra những câu đố oái oăm, hóc búa để thử tài.

Một hôm, viên quan thấy hai cha con đang làm ruộng bèn hỏi một câu rất khó về số đường cày con trâu cày được trong một ngày. Ông bố không trả lời được, cậu con trai nhanh trí hỏi vặn lại khiến viên quan thua cuộc. Biết đã gặp được người tài, viên quan nọ về bẩm báo với vua. Vua tiếp tục thử tài, bắt dân làng đó phải làm sao cho trâu đực đẻ ra trâu con. Bằng cách để cho nhà vua tự nói ra sự vô lí trong yêu cầu của mình, cậu bé đã cứu dân làng thoát tội. Cậu tiếp tục chứng tỏ tài năng bằng cách giải các câu đố tiếp theo và được nhà vua ban thưởng rất hậu.

Vua nước láng giềng muốn kéo quân sang xâm lược nhưng trước hết muốn thử xem nước ta có người tài hay không bèn cho sứ giả mang sang một chiếc vỏ ốc vặn thật dài và đố xâu sợi chỉ qua. Tất cả triều đình không ai giải được lại tìm đến cậu bé. Với trí thông minh khác người, lại sống gần gũi với thực tế, cậu bé vừa chơi vừa giải đố, kết quả là tránh được cho đất nước một cuộc chiến tranh. Nhà vua thấy thế bèn xây dinh thự ngay cạnh hoàng cung để cậu ở cho tiện việc hỏi han đồng thời phong cho cậu làm Trạng nguyên.

II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK

1. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích không? Tác dụng của hình thức này?

Trả lời:

Dùng câu đố để thử tài nhân vật là chi tiết rất phổ biến trong truyện dân gian nói chung, truyện cổ tích nói riêng. Hình thức này có tác dụng sau:

-  Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất.

-  Tạo tình huống cho cốt truyện phát triển

-   Gây hứng thú hồi hộp cho người nghe.

2. Sự mưu trí thông minh của em bé trong truyện Em bé thông minh được thử thách qua mấy lần? Lần sau có khó hơn lần trước không? Vì sao?

Trả lời:

*  Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua bốn lần:

-    Lần 1: Đáp lại câu đố của viên quan - "Trâu cày một ngày được mây đường?".

-    Lần 2: Đáp lại thử thách của vua đối với dân làng - nuôi ba con trâu đực sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm để nộp cho vua.

-    Lần 3: Cũng là thử thách của vua - từ một con chim sẻ làm thành ba mâm cỗ thức ăn.

-   Lần 4: Câu đố thử thách của sứ thần nước ngoài - xâu một sợi chỉ mảnh qua ruột con ốc vặn rất dài.

*  Sự thử thách lần sau khó khăn hơn lần trước, vì:

-   Xét về người đố: lần đầu là viên quan, hai lần tiếp sau là vua và lần cuối cùng cậu bé phải "đốì đáp" với sứ thần nước ngoài.

-  Tính chất oái oăm của câu đố cũng tăng lên.

3. Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải những câu đố oái oăm? Theo em, những cách ấy lí thú ở chỗ nào?

Trả lời:

*   Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách rất thông minh để giải đố:

-   Lần 1: Đố lại viên quan.

-  Lần 2: Để vua tự nói ra sự vô lí, phi lí của điều mà vua đã đố.

-   Lần 3: Cũng bằng cách đố lại.

-  Lần 4: Dùng kinh nghiệm đời sống dân gian.

*  Những cách giải đố của cậu bé thông minh, lí thú ở chỗ:

-  Đẩy thế bí về phía người ra câu đố, lấy "gậy ông đập lưng ông".

-  Làm cho những người ra câu đố tự thấy cái vô lí, phi lí của điều mà họ nói.

-  Những lời giải đố đều không dựa vào sách vở, mà dựa vào kiến thức đời sống.

-   Làm cho người ra câu đố, người chứng kiến và người nghe ngạc nhiên vì sự bất ngờ, giản dị và rất hồn nhiên của những lời giải.

4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Em bé thông minh.

Trả lời:

Truyện Em bé thông minh có các ý nghĩa sau:

-  Ý nghĩa đề cao trí thông minh.

- Ý nghĩa mua vui, hài hước.

Câu chuyện cổ tích Em bé thông minh đề cao phẩm chất trí tuệ của con người, cụ thể là người lao động nghèo. Đó là trí thông minh được đúc rút từ hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú. Những người nông dân khi xưa tuy không mấy ai được cắp sách đến trường nhưng những kinh nghiệm, những kiến thức họ có được là nhờ có cuộc đời, trường học của họ là trường đời.

2 tháng 10 2019

Ý nghĩa nhan đề truyện cuộc chia tay của những con búp bê là gì?

Tham khảo: https://h.o.c24.vn/hoi-dap/question/94662.html

Viết đoạn văn 5-7 câu nêu cảm nhận của em về Thành hoặc Thủy?

Tham khảo: https://h.o.c24.vn/hoi-dap/question/93070.html

~Std well~

#Awake

2 tháng 10 2019

Mk ko vào được link

ĐÂY MÀ LÀ NGỮ VĂN À???

2 tháng 10 2019

ko được đăng linh tinh