K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Cần gấp trong tối nay ạ Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Cần gấp trong tối nay ạ

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.

Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.

Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!

Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết. Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu; chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi, để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

( Trích chương 12, “Thương nhớ mười hai’ Vũ Bằng, NXB Văn Học, Hà Nội,1993)

1
22 tháng 5

A. Đề nghị 1: Viết bài nghị luận phân tích, đánh giá đoạn trích “Yêu tháng chạp…” (Vũ Bằng)

Đề bài:
“Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế,… (đến hết) …chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

(Trích “Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng)

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả – tác phẩm: Vũ Bằng (1913–1984) là một trong những cây bút bậc thầy về bút ký và truyện ngắn miền Bắc trước 1954. Tác phẩm “Thương nhớ mười hai” là tập bút ký ca ngợi trọn vẹn không khí cuối năm, đặc biệt là Tết cổ truyền.
  • Dẫn dắt nội dung đoạn trích: Đoạn trích “Yêu tháng chạp…” thể hiện nỗi nhớ, niềm yêu tháng Chạp của người viết, qua đó gợi lên cả một bức tranh phong phú về tâm trí và văn hóa Tết.
  • Luận điểm: Bài nghị luận sẽ phân tích ngôn từ giàu hình ảnh, tình cảm thiết tha; đồng thời đánh giá giá trị nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc mà đoạn trích đem lại.

II. Thân bài

  1. Phong cách ngôn ngữ và cú pháp
    • Ngôn từ giàu hình tượng, đối lập tinh tế:
      • “Tháng chạp” được nhân hóa: “thời tiết sao mà dị thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế… lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.” → gợi lên cảm giác “ngày giáp tết” sinh động, ấm áp.
      • Hàng loạt các hình ảnh đối lập: “ngọn cỏ gió đùa” – “ngọn núi đồi sim/ nhựa cây mạch đất”, “con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non” → thiên nhiên đang hồi sinh, như thôi thúc lòng người.
    • Câu văn dài, liền mạch, dùng dấu phẩy nối liên tiếp: Lối liệt kê liên tục (enumeration) giúp thể hiện đủ mọi góc nhìn về Tháng Chạp: thiên nhiên, con người, phong tục, thực phẩm, quà biếu.
    • Những chi tiết rất đời thường, giàu chất bút ký: từ “cây sim”, “mây trôi lãng đãng”, “cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh”… cho đến “một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công”, “hộp trà Thiết Quan Âm”, “chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám”… → gợi đủ giác quan: thị giác, khứu giác, vị giác…
  2. Những tầng ý nghĩa hiện lên trong đoạn trích
    • Tình yêu đất trời, người và vạn vật:
      • Người viết tỏ ra yêu “ngọn cỏ gió đùa, mây trôi”, “cây sim”, “con sâu cái kiến” … cho thấy một tình yêu hết thảy mọi vật nhỏ bé. Đó là tình yêu “vạn vật đồng cảm” của bút ký.
      • Khi nhắc đến “cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh rải trên mái tóc” hay “con bướm đa tình bay lượn” lại là tình yêu con người, tình yêu cuộc sống đậm vị xuân.
    • Nỗi nhớ quê cũ, khát vọng sum họp, hướng về cội nguồn:
      • Dù “Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ…” nhưng tâm hồn vẫn luôn “hướng về quê cũ xa xưa”.
      • Hình ảnh “đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong” thể hiện phong tục Tết Bắc Bộ mộc mạc, đượm tình.
      • “Mua mấy cánh mẫu đơn cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu…” → đều là những kỷ niệm không thể nào quên giữa “đời sống đô thị” và “chút xưa”.
    • Thói biếu xén, lễ nghĩa ngày Tết:
      • Tâm điểm là cuộc tính toán những món quà biếu: “hộp trà Thiết Quan Âm biếu ông Long… ông Luận đã cho rượu, chả lẽ lại biếu rượu nữa? Hay biếu cân mứt, chục cam Xã Đoài?”
      • “Đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ…” cho thấy cả một mạng lưới lễ nghĩa phức tạp, dẫu người viết biết rằng một phần chỉ là “giao tiễn đôi mùa” nhưng vẫn không thể nào giản tiện.
      • Qua đó, vừa châm biếm, đồng thời thấu hiểu “văn hóa biếu tặng” trong những ngày Tết – vừa tự hào vừa rơm rớm khó xử.
  3. Giá trị nghệ thuật
    • Giọng văn thành thật, mộc mạc mà sâu sắc: Dường như tác giả chỉ chép lại tường tận những gì mắt thấy, tai nghe, mùi ngửi, mùi vị… mà không tô vẽ cầu kỳ, một “dòng bút ký” đúng nghĩa.
    • Nhịp điệu cảm xúc nhịp nhàng: Đoạn mở đầu là niềm yêu vô tận với “tháng chạp” và thiên nhiên, chuyển dần sang ký ức nhớ quê, cuối cùng lắng xuống với những trăn trở lễ nghĩa. Nhịp cảm xúc ấy như bản hòa ca của tâm hồn nhà văn, biểu cảm rất linh hoạt.
    • Hình ảnh giàu chất tạo hình, giàu tính gợi: Từng chi tiết “quan trọng” cho đến “nhỏ xíu” đều được khắc họa tỉ mỉ: “giấy đỏ”, “hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc”, “chai rượu nếp cẩm hạ thổ”... Chỉ cần đọc tên món ăn, món quà, người Hà Nội đủ “cảm” ra cái không khí sắp Tết thân thuộc.
  4. Đánh giá
    • Tác phẩm có sức gợi mạnh về tâm thái con người cuối năm: Đọc đến đâu, người ta như ngửi được mùi gió lạnh, nghe được tiếng rao quất, tiếng cười bà con.
    • Đoạn trích vừa ca ngợi vừa phê phán tinh tế:
      • Ca ngợi vẻ đẹp nhịp sống Tết, tình yêu thiên nhiên, tình người.
      • Phê phán nhẹ nhàng những lề thói biếu xén, tốn kém vô ích, khiến người ta cảm thấy “không biết làm ăn ra sao”.
    • Chính sự giao thoa giữa ca ngợi và châm biếm tinh tế đã làm nên sức sống lâu bền cho bút ký của Vũ Bằng.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị nghệ thuật và tư tưởng: Đoạn trích cho thấy tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ gia đình và cách nhìn tinh tế, hài hước về phong tục Tết.
  • Nêu cảm nhận của bản thân: “Với tôi, đọc Vũ Bằng là cảm nhận được một không khí Tết rất ấm áp, vừa hoài cổ, vừa thức tỉnh về những giá trị truyền thống.”
Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với  cần GẤP TRONG TỐI NAY Ạ Viết bài văn Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với  cần GẤP TRONG TỐI NAY Ạ

Viết bài văn Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:

(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm (dứa): giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. (…). Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn (...)

                   (Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Chú thích:

 “Hoa trái quanh tôi” là bài bút kí được Hoàng Phủ Ngọc Tường đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 3, tháng 10-1983. Ở Huế, Bà Lan Hữu có một khu vườn rất đẹp gọi là An Hiên. Tác giả là người quen thân với bà Lan Hữu, thường xuyên tới khu vườn chơi và ghi lại những cảm nhận của mình về vẻ đẹp của khu vườn xuyên suốt bốn mùa trong năm. Đoạn trích trên là cảm nhận của tác giả về các loài hoa trong khu vườn An Nhiên vào mùa hạ.

 

1

Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích trong “Hoa trái quanh tôi”

Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút tiêu biểu với phong cách bút kí đậm chất trữ tình, giàu suy tưởng và mang đậm dấu ấn cá nhân. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nét đặc trưng ấy là "Hoa trái quanh tôi". Đặc biệt, đoạn trích viết về khu vườn An Hiên vào mùa hạ không chỉ phác họa vẻ đẹp yên bình, thơ mộng của thiên nhiên Huế mà còn cho thấy một cái tôi nghệ sĩ đầy tinh tế, chan chứa tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

Vẻ đẹp khu vườn An Hiên trong đoạn trích hiện lên không phải bằng vẻ rực rỡ, lộng lẫy, mà là vẻ đẹp trầm mặc, sâu lắng của sự sống.

Ngay từ đầu đoạn trích, tác giả đã mở ra một không gian đặc trưng của mùa hạ bằng cảm nhận tinh tế: “sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối”. Cảnh vật như lắng đọng, yên bình, màu sắc cũng chuyển mình từ sắc xuân bay bướm sang sắc “lục trầm trầm của lá già”. Đó là màu của thời gian, của sự từng trải, bình ổn, mang vẻ đẹp rất riêng, đậm chất Huế – mộc mạc mà thâm trầm.

Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vườn An Hiên không đẹp theo lối phô trương, mà cái đẹp đến từ sức sống âm thầm bên trong. Dưới những tán lá rậm rạp là “các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc”. Đó là sự sống căng đầy, mãnh liệt và mạnh mẽ của thiên nhiên. Vườn cây mang vẻ đẹp của sức sinh sôi, của sự tiếp nối.

Không dừng lại ở việc tả cảnh, tác giả còn dành những trang viết đẹp đẽ và đầy cảm xúc cho từng loại quả. Mỗi loại quả được miêu tả bằng hình ảnh cụ thể, sống động, với liên tưởng phong phú, cho thấy sự quan sát tinh tế và tình yêu thiên nhiên nồng nàn của tác giả.

Quả thơm Nguyệt Biều được ví như một chiếc “bánh kem sinh nhật” do “cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn”, vừa bất ngờ, vừa gợi cảm giác ngọt ngào, dịu dàng, như chứa đựng linh hồn của cây trái. Hay hình ảnh cây dâu Truồi “tán lá khum khum úp sát mặt đất”, trái “vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây” mang đến một khung cảnh trù phú, đầy quyến rũ. Những liên tưởng này không chỉ thể hiện sự giàu có của thiên nhiên, mà còn là sự giao cảm sâu sắc giữa con người và vạn vật.

Đặc biệt, hình ảnh cây thanh long – “giống cây hiền lành nhất trong vườn” – được mô tả với sự trìu mến, gợi lên vẻ đẹp thầm lặng, khiêm nhường. Dù thân cây xấu xí như “đống dây chão”, nhưng hoa lại đẹp tuyệt diệu, “hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm”. Cây thanh long hiện lên như một người hiền từ, sống âm thầm, giản dị nhưng lại biết cho đi – đó cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp nhân hậu, bền bỉ của con người Huế.

Thông qua những dòng miêu tả ấy, cái tôi trữ tình và nghệ sĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên rõ nét.

Trước hết, đó là cái tôi của một người yêu thiên nhiên, gắn bó mật thiết với quê hương, đất nước. Từng hình ảnh cây trái, từng chuyển động nhỏ của mùa hạ đều được ông cảm nhận bằng sự rung động sâu sắc. Cái tôi ấy không chỉ nhìn mà còn “cảm”, không chỉ tả mà còn suy tưởng và giao cảm.

Thứ hai, đó là cái tôi của một người nghệ sĩ tinh tế, có đời sống nội tâm phong phú, giàu trí tưởng tượng và chất thơ. Những so sánh như dứa Nguyệt Biều với bánh kem, dâu chín như đã được hái sẵn, thanh long như vật bị bỏ quên nhưng lại hiến dâng hoa trái… đều cho thấy tâm hồn nhạy cảm và óc quan sát đầy nghệ thuật của tác giả.

Cuối cùng, đó là cái tôi yêu cuộc sống, yêu sự an nhiên, thanh thản. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ miêu tả thiên nhiên, mà qua thiên nhiên, ông thể hiện một triết lí sống rất đẹp: sống chậm, sống sâu, sống chan hòa với thiên nhiên. Ước mơ “trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu” là ước mơ giản dị mà đầy chất thơ – một lối sống mà biết bao người hằng mơ ước trong nhịp sống hiện đại hôm nay.

Kết luận:

Đoạn trích trong “Hoa trái quanh tôi” không chỉ là một bức tranh sinh động về khu vườn An Hiên vào mùa hạ, mà còn là bức chân dung tâm hồn của Hoàng Phủ Ngọc Tường – một con người nhạy cảm, yêu thiên nhiên, trân quý từng vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Qua đó, ta càng thêm yêu mến mảnh đất Huế thơ mộng và thấm thía thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên: sống chậm lại, yêu nhiều hơn và cảm nhận cuộc đời bằng tất cả trái tim.


Bạn có muốn mình giúp tóm tắt hoặc trích dẫn lại các ý chính để ôn tập nhanh không?

Đỗ Cận là một nhà thơ mang đậm phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và sâu lắng. Thơ ông thường giản dị, không cầu kỳ về hình thức nhưng lại giàu cảm xúc và gần gũi với tâm hồn người đọc. Đỗ Cận có một cách nhìn rất riêng về thiên nhiên và cuộc sống – đầy yêu thương, tinh tế và thấm đượm chất nhân văn. Qua từng câu chữ, người đọc dễ dàng cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, chan chứa tình yêu quê hương, con người và những điều bình dị nhất trong cuộc sống. Chính sự chân thành và lắng sâu ấy đã làm nên sức sống lâu bền cho thơ Đỗ Cận trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.


Nếu bạn cần đoạn dài hơn hoặc dùng để làm mở bài trong bài văn cụ thể, mình có thể mở rộng thêm nhé!

Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh. Lòng đâu sẵn mối thương tâm,Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.Đau đớn thay phận đàn bà!Lời rằng bạc mệnh cũng là...
Đọc tiếp

Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh. 

Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Phũ phàng chi mấy hoá công,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,

Hại thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung1,

Nào người tích lục tham hồng2 là ai ?

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Họa là người dưới suối vàng biết cho.

Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,

Sụp ngồi vái gật trước mồ bước ra.

Một vùng cỏ áy3 bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.

Rút trâm giắt sẵn mái đầu,

Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài

?Tìm các từ láy và nêu mạch cảm xúc của Thúy Kiều.Nêu tác dụng của phép đối trong:

Sống làm vợ khắp người ta,

Hại thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung1,

Nào người tích lục tham hồng2 là ai ?


1
22 tháng 5

Gợi ý trả lời:
Trong đoạn trích Biển người mênh mông, điểm nhìn trần thuật được sử dụng là ngôi thứ nhất, người kể chuyện là một nhân vật trực tiếp chứng kiến cảnh biển người đông đúc. Điểm nhìn này giúp tạo sự chân thực, sinh động và gần gũi cho người đọc, thể hiện rõ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật về sự huy hoàng, náo nhiệt của chợ phiên. Qua đó, tác giả thể hiện được sự phong phú, tấp nập của cuộc sống vùng quê qua góc nhìn riêng biệt.

22 tháng 5

Bánh chứng kiến là một loại bánh truyền thống, thường xuất hiện trong các dịp lễ hội và có ý nghĩa tượng trưng. Cái tên "chứng kiến" có thể ám chỉ sự chứng thực hoặc là minh chứng cho một sự kiện quan trọng nào đó trong cuộc sống. Việc gọi là bánh chứng kiến có thể phản ánh sự gắn kết giữa bánh và những dịp đặc biệt mà chúng xuất hiện.

8 tháng 4

Đây nha :

Dàn ý thuyết minh về cảnh quan thiên nhiên vùng biển huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi

I. Mở bài

  • Giới thiệu về huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi: một huyện nằm ven biển, với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
  • Đề cập đến vẻ đẹp đặc trưng của cảnh quan biển huyện Mộ Đức: những bãi biển xanh mát, cát trắng mịn, làn sóng vỗ về, cùng với hệ sinh thái biển phong phú.

II. Thân bài

  1. Vị trí địa lý và đặc điểm chung
    • Huyện Mộ Đức nằm ở khu vực ven biển miền Trung, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
    • Khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa hè nắng nóng và mùa đông mát mẻ, thuận lợi cho các hoạt động du lịch biển.
    • Mộ Đức có bờ biển dài với nhiều bãi tắm đẹp, dễ dàng tiếp cận từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi.
  2. Cảnh quan thiên nhiên biển Mộ Đức
    • Bãi biển Mộ Đức: Bãi biển dài, cát trắng mịn, nước biển trong xanh, là nơi lý tưởng để tắm biển và thư giãn.
    • Hệ sinh thái biển: Với rạn san hô, cá, tôm, và các loài sinh vật biển phong phú, vùng biển Mộ Đức là nơi sinh sống của nhiều loài động vật biển quý hiếm.
    • Các đầm, vịnh ven biển: Nơi đây có những đầm phá như đầm Thị Nại, nơi có cảnh sắc bình yên, là nơi sinh sống của nhiều loài thủy sinh, cùng hệ thực vật ngập mặn đa dạng.
  3. Phong cảnh và cảnh quan thiên nhiên xung quanh biển
    • Đồi cát Mộ Đức: Những đồi cát trắng trải dài, mang lại vẻ đẹp hoang sơ và quyến rũ, thu hút du khách đến chụp ảnh và tham gia các hoạt động ngoài trời.
    • Làng chài truyền thống: Nơi cư dân địa phương sinh sống và làm nghề chài lưới, tạo nên một bức tranh sống động với những chiếc thuyền đậu trên bãi biển, từng đàn cá được mang vào bờ.
    • Cây cối và thảm thực vật: Vùng ven biển có nhiều loài cây đặc trưng như cây dừa, cây phi lao, cùng với hệ thực vật ngập mặn, giúp bảo vệ bờ biển khỏi xói mòn.
  4. Kinh tế và đời sống của người dân
    • Ngư nghiệp và du lịch biển: Biển Mộ Đức là nguồn sống của người dân nơi đây với các hoạt động đánh bắt thủy sản và nuôi trồng hải sản. Các sản phẩm như cá, tôm, rong biển, ngọc trai... là đặc sản nổi bật.
    • Du lịch sinh thái: Những năm gần đây, huyện Mộ Đức đã phát triển du lịch sinh thái, thu hút khách tham quan các bãi biển, làng chài, và các hoạt động thể thao dưới nước như lướt ván, bơi thuyền kayak, hay câu cá.

III. Kết bài

  • Tóm lại, biển Mộ Đức, Quảng Ngãi là một điểm đến tuyệt vời với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, đa dạng sinh thái và nền văn hóa đặc trưng của ngư dân miền Trung.
  • Kêu gọi bảo vệ và gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên này, đồng thời phát triển du lịch bền vững để Mộ Đức trở thành điểm đến hấp dẫn trong tương lai.
7 tháng 4

Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một biểu tượng đầy ám ảnh về số phận con người trong xã hội nông thôn Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Qua hình tượng này, Nam Cao đã thể hiện tài năng xuất sắc trong việc xây dựng nhân vật và phản ánh các vấn đề xã hội sâu sắc. Dưới đây là phần phân tích tập trung vào sự biến đổi tâm lý và số phận bi thảm của Chí Phèo:

1. Số phận bi thảm:

Chí Phèo sinh ra là một người nông dân hiền lành, tử tế, có khát vọng về một cuộc sống bình dị. Tuy nhiên, sự tha hóa bắt đầu từ việc anh bị Bá Kiến hãm hại, đẩy vào tù oan. Sau khi ra tù, Chí Phèo không còn là con người thật sự của mình, mà trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Anh sống cuộc đời của một kẻ bị ruồng bỏ, không gia đình, không mối liên hệ xã hội, hoàn toàn bị cô lập.

Cuộc đời Chí Phèo là bi kịch của một con người bị bóc lột, chà đạp và biến chất bởi hệ thống xã hội bất công. Không chỉ bị tổn thương về thể xác, Chí Phèo còn chịu sự tổn thương tâm hồn sâu sắc, mất đi nhân tính và ước mơ.

2. Sự biến đổi tâm lý:

  • Thời kỳ tha hóa: Sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành một kẻ say xỉn, chuyên đi phá phách và đe dọa mọi người trong làng để kiếm ăn. Anh chìm trong men rượu, tìm quên đi đau khổ và cảm giác bị ruồng bỏ. Trong giai đoạn này, tâm lý của Chí Phèo đầy bức bối, uất hận, và anh không còn nhận thức được bản thân là ai.
  • Giai đoạn thức tỉnh: Cuộc gặp gỡ với Thị Nở là bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở đã mang lại cho anh hơi ấm của tình người, khơi dậy khát vọng được làm người lương thiện và được yêu thương. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo nhận ra mong muốn được sống đúng nghĩa, được hòa nhập với xã hội.
  • Bi kịch cuối cùng: Khi Thị Nở từ chối tình cảm của Chí Phèo, anh rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Nhận ra rằng mình không thể trở lại làm người lương thiện, Chí Phèo đã chọn cách tự kết thúc cuộc đời bằng việc giết Bá Kiến và tự sát. Đây là hành động thể hiện sự phản kháng cuối cùng trước số phận cay nghiệt và xã hội bất công.

3. Ý nghĩa hình tượng Chí Phèo:

Chí Phèo không chỉ là một nhân vật điển hình của văn học hiện thực phê phán, mà còn là biểu tượng cho những người nông dân bị chà đạp trong xã hội phong kiến. Qua sự biến đổi tâm lý phức tạp và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã phơi bày sự tàn nhẫn của xã hội đương thời và đặt câu hỏi lớn về quyền sống, quyền được làm người.


  • Phân tích nhân vật Chí Phèo:
    • Xuất thân và sự tha hóa: Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, lương thiện bị đẩy vào tù tội, tha hóa về nhân cách và trở thành một kẻ lưu manh, côn đồ.
    • Biểu hiện của sự tha hóa: Chí Phèo thường xuyên say xỉn, chửi bới, đâm thuê chém mướn, trở thành nỗi ám ảnh của người dân làng Vũ Đại.
    • Khát vọng lương thiện: Bên trong con người Chí Phèo vẫn còn sót lại những phẩm chất tốt đẹp, khao khát được sống lương thiện, được yêu thương. Điều này thể hiện rõ qua mối quan hệ với Thị Nở.
    • Cái chết bi thảm: Chí Phèo chết trong cô đơn, tuyệt vọng, không tìm thấy lối thoát cho cuộc đời mình, thể hiện sự bế tắc của xã hội đương thời.