K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Suy nghĩ về tình trạng lười vận động của giới trẻ hiện nay

Trong xã hội hiện đại, khi công nghệ phát triển mạnh mẽ và cuộc sống ngày càng trở nên bận rộn, tình trạng lười vận động của giới trẻ ngày càng phổ biến. Đây là một vấn đề đáng báo động và cần phải được giải quyết kịp thời, bởi lẽ nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn làm suy giảm khả năng phát triển toàn diện của thế hệ trẻ.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lười vận động là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và các thiết bị điện tử. Các trò chơi điện tử, mạng xã hội, hay việc dành nhiều giờ để xem tivi đã khiến giới trẻ dành phần lớn thời gian trong một ngày để ngồi một chỗ. Thay vì tham gia các hoạt động thể thao, rèn luyện cơ thể, nhiều bạn trẻ lại chọn cách lướt web, chơi game, hoặc thậm chí làm việc với máy tính trong thời gian dài. Điều này đã dẫn đến một lối sống thụ động, thiếu vận động, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe thể chất và tinh thần.

Ngoài ra, áp lực học hành và công việc cũng là một yếu tố khiến giới trẻ ít chú trọng đến việc vận động. Thời gian dành cho các hoạt động thể thao, vui chơi ngoài trời thường bị thu hẹp do các bạn phải học tập, làm bài tập, hoặc tham gia vào các khóa học thêm. Nhiều bạn trẻ cho rằng học là quan trọng nhất, còn thể dục thể thao chỉ là một hoạt động phụ trợ không cần thiết. Tuy nhiên, quan điểm này là sai lầm, vì việc vận động không chỉ giúp cơ thể khỏe mạnh mà còn giúp cải thiện trí tuệ, tăng cường sự tập trung và khả năng học hỏi.

Hệ quả của việc lười vận động là rất rõ rệt. Nó dẫn đến các bệnh lý như béo phì, tiểu đường, tim mạch, và đặc biệt là các vấn đề về xương khớp và tinh thần. Việc thiếu vận động cũng khiến tâm trạng của nhiều bạn trẻ trở nên uể oải, căng thẳng, dễ bị stress. Hơn nữa, một cơ thể không được rèn luyện sẽ thiếu sức bền, thiếu sự dẻo dai và không có khả năng đối phó với các thử thách trong cuộc sống.

Để khắc phục tình trạng này, mỗi cá nhân cần thay đổi thói quen sống, dành thời gian cho việc vận động và thể thao. Các trường học, gia đình và xã hội cần tạo điều kiện, khuyến khích các bạn trẻ tham gia các hoạt động thể dục thể thao, từ những môn thể thao đơn giản như đi bộ, đạp xe đến các môn thể thao đồng đội giúp rèn luyện sức khỏe và tinh thần. Bên cạnh đó, giới trẻ cũng nên học cách cân đối giữa học tập và nghỉ ngơi, không để công việc chiếm hết thời gian và bỏ quên sức khỏe của bản thân.

Tóm lại, lười vận động là một trong những vấn đề đáng lo ngại của giới trẻ hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần có những thay đổi từ nhận thức đến hành động, giúp cho thế hệ trẻ vừa khỏe mạnh về thể chất, vừa mạnh mẽ về tinh thần, từ đó có thể đối mặt với những thử thách trong cuộc sống.

31 tháng 3

Từ thời xa xưa, câu "Cần cù bù thông minh" đã được ông cha ta lưu truyền để tôn vinh phẩm chất chăm chỉ, cần mẫn trong học tập và công việc. Tuy nhiên, trong mọi xã hội, luôn có sự tồn tại của sự lười biếng. Vậy làm thế nào để giảm thiểu tình trạng này?

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu rõ sự lười biếng là gì. Đó là trạng thái không hoạt động và có sự kháng cự nội tâm, khiến ta không cố gắng và không hành động. Đó là sự thụ động và để mọi thứ diễn ra theo cách của chúng nó, kể cả đối với những trách nhiệm và nghĩa vụ cần phải thực hiện.

Nguyên nhân chính của sự lười biếng là do bản thân con người. Trong chúng ta luôn có phần "con" và phần "người". Những người để phần "con" chiếm ưu thế sẽ có xu hướng chỉ thích hưởng thụ mà không muốn làm việc, trốn tránh việc phải làm. Tuy nhiên, những người có quyết tâm sẽ khống chế được sự lười biếng và làm việc, học tập. Ngược lại, những người lười biếng sẽ tiếp tục nằm trong chăn ấm và không bận tâm về hậu quả của việc không làm việc.

Sự phát triển của xã hội và khoa học kĩ thuật đã dẫn đến sự phát triển của các thiết bị công nghệ, máy móc hiện đại giúp con người không cần phải hoạt động nhiều, nhưng sự phụ thuộc quá nhiều vào máy móc sẽ khiến con người trở nên lười biếng, trì trệ và không linh hoạt. Chúng ta cần tự hoàn thiện bản thân để có thể sử dụng được máy móc, không chỉ dựa vào những thứ máy móc làm cho mình ngày càng thụ động. Ngoài ra, sự phát triển của các thiết bị công nghệ, Internet cũng góp phần dẫn đến sự lười biếng của con người nói chung và của học sinh nói riêng. Chúng ta cần cẩn trọng để không bị lôi cuốn bởi các trò chơi điện tử, mạng xã hội khi ngồi vào bàn học, và tránh việc trì hoãn học tập. Sự lười biếng không chỉ là thói quen khó bỏ, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển cá nhân và gây hậu quả xấu cho toàn xã hội. Chúng ta cần phải cố gắng tự đánh thức và khuyến khích sự sáng tạo của chúng ta để đạt được những thành công mà chúng ta mong muốn.

Để đạt được thành công và đáp ứng được các mục tiêu trong cuộc sống, chúng ta cần nhận thức được tác hại của sự lười biếng và cần có những biện pháp để hạn chế nó. Điều này bao gồm việc lập thời gian biểu cho bản thân, tập trung rèn luyện khả năng tự làm và suy nghĩ độc lập, không phụ thuộc vào người khác. Tuy nhiên, quan trọng nhất là chúng ta phải có quyết tâm cao độ để loại bỏ sự lười biếng và biến ước mơ thành hiện thực. Mặc dù lười biếng đôi khi không thể tránh khỏi, nhưng nếu nó trở thành thói quen thì sẽ gây tổn hại cho sự phát triển của bản thân và dẫn đến hậu quả không tốt cho cuộc sống. Do đó, chúng ta cần luôn luôn nhắc nhở bản thân vượt qua sự lười biếng và hoàn thiện bản thân để đạt được những thành công trong cuộc sống.


24 tháng 3

tham khảo đc ko

24 tháng 3

Ngày xưa, Vua Hùng Vương thứ 18 có nuôi một đứa trẻ thông minh khôi ngô, đặt tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm.

Lớn lên, vua cưới vợ cho An Tiêm, và tin dùng ở triều đình. Cậy nhờ ơn Vua cha, nhưng An Tiêm lại kiêu căng cho rằng tự sức mình tài giỏi mới gây dựng được sự nghiệp, chứ chẳng nhờ ai. Lời nói này đến tai vua. Vua cho là An Tiêm là kẻ kiêu bạc vô ơn, bèn đầy An Tiêm cùng vợ con ra một hòn đảo xa, ở ngoài biển Nga Sơn (Thanh Hóa, Bắc Việt).

Người vợ là nàng Ba lo sợ sẽ phải chết ở ngoài cù lao cô quạnh. Nhưng An Tiêm thì bình thản nói: "Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta, việc gì phải lo".

Hai vợ chồng An Tiêm cùng đứa con đã sống hiu quạnh ở một bãi cát, trên hoang đảo. Họ ra sức khai khẩn, trồng trọt để kiếm sống. Một ngày kia, vào mùa hạ, có một con chim lạ từ phương tây bay đến đậu trên một gò cát. Chim nhả mấy hạt gì xuống đất. Được ít lâu, thì hạt nẩy mầm, mọc dây lá cây lan rộng.

Cây nở hoa, kết thành trái to. Rất nhiều trái vỏ xanh, ruột đỏ. An Tiêm bảo vợ: "Giống cây này tự nhiên không trồng mà có. Tức là vật của Trời nuôi ta đó". Rồi An Tiêm hái nếm thử, thấy vỏ xanh, ruột đỏ, hột đen, mùi vị thơm và ngon ngọt, mát dịu. An Tiêm bèn lấy hột gieo trồng khắp nơi, sau đó mọc lan ra rất nhiều.

Một ngày kia, có một chiếc tầu bị bão dạt vào cù lao. Mọi người lên bãi cát, thấy có nhiều quả lạ, ngon. Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn đi là có một giống dưa rất ngon ở trên đảo. Các tầu buôn tấp nập ghé đến đổi chác đủ thứ vật dụng và thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống phong lưu.

Vì chim đã mang hột dưa đến từ phương Tây, nên An Tiêm đặt tên cho thứ trái cây này là Tây Quạ Người Tầu ăn thấy ngon, khen là "hẩu", nên về sau người ta gọi trại đi là Dưa Hấu.

Ít lâu sau, Vua sai người ra cù lao ngoài biển Nga Sơn dò xét xem gia đình An Tiêm ra làm sao, sống hay chết. Sứ thần về kể lại cảnh sống sung túc và nhàn nhã của vợ chồng An Tiêm, nhà vua ngẫm nghĩ thấy thầm phục đứa con nuôi, bèn cho triệu An Tiêm về phục lại chức vị cũ trong triều đình.

An Tiêm đem về dâng cho Vua giống dưa hấu mà mình may mắn có được. Rồi phân phát hột dưa cho dân chúng trồng ở những chỗ đất cát, làm giầu thêm cho xứ Việt một thứ trái cây danh tiếng. Hòn đảo mà An Tiêm ở, được gọi là Châu An Tiêm.


"Sự tích dưa hấu" là một truyện cổ tích Việt Nam nổi tiếng, kể về nguồn gốc của quả dưa hấu. Câu chuyện không chỉ hấp dẫn bởi tình tiết li kì, mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Tóm tắt cốt truyện:

Mai An Tiêm, con nuôi của vua Hùng, bị vua cha đày ra đảo hoang vì dám nói "của biếu là của lo, của cho là của nợ". Tại đây, An Tiêm và gia đình đã phải trải qua những ngày tháng khó khăn, thiếu thốn. Một ngày nọ, An Tiêm nhặt được một hạt giống lạ do chim mang đến. Anh gieo trồng và thu được những quả dưa hấu ngọt mát. Từ đó, dưa hấu trở thành nguồn sống của gia đình An Tiêm và lan rộng ra khắp nơi.

Phân tích các khía cạnh của truyện:

  • Ý nghĩa về tinh thần tự lực, tự cường:
    • An Tiêm là hình tượng của người lao động cần cù, sáng tạo, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh.
    • Câu chuyện đề cao tinh thần tự lực, tự cường, dám đương đầu với khó khăn để tạo dựng cuộc sống.
  • Ý nghĩa về lòng biết ơn:
    • An Tiêm biết ơn những gì mình có, dù là nhỏ bé nhất.
    • Câu chuyện nhắc nhở chúng ta trân trọng những thành quả lao động, biết ơn những gì mình nhận được.
  • Ý nghĩa về sự lan tỏa của cái đẹp, cái tốt:
    • Dưa hấu, từ một loại quả lạ, đã trở thành một loại quả ngon, được mọi người yêu thích.
    • Câu chuyện thể hiện niềm tin vào sự lan tỏa của cái đẹp, cái tốt trong cuộc sống.
  • Giá trị văn hóa:
    • "Sự tích dưa hấu" là một phần của kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
    • Câu chuyện góp phần giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần lao động, lòng biết ơn và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Đặc sắc nghệ thuật:

  • Cách kể chuyện giản dị, gần gũi, phù hợp với văn hóa dân gian.
  • Sử dụng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo, tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện.
  • Xây dựng hình tượng nhân vật An Tiêm với những phẩm chất tốt đẹp, được người đọc yêu mến.

"Sự tích dưa hấu" là một câu chuyện cổ tích đầy ý nghĩa, mang đến cho người đọc những bài học quý giá về cuộc sống.

23 tháng 3

Ở bài văn, người con đã thấy xu thẻ

Đọc văn bản sau:                   Lúa chín       Đồng chiêm phả nắng lên không Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng       Gió nâng tiếng hát chói chang  Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.                   Gặt lúa       Tay nhè nhẹ chút người ơi Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng       Dễ rơi là hạt đầu bông Công một nén, của một đồng là đây.      ...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

                  Lúa chín

      Đồng chiêm phả nắng lên không

Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng

      Gió nâng tiếng hát chói chang

 Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.

                  Gặt lúa

      Tay nhè nhẹ chút người ơi

Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng

      Dễ rơi là hạt đầu bông

Công một nén, của một đồng là đây.

                  Tuốt lúa

      Mảnh sân trăng lúa chất đầy

Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình

      Rơm vò từng búi rối tinh

Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi.

                  Phơi khô

      Nắng non mầm mục mất thôi

Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn

       Nắng già hạt gạo thêm ngon

Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.

                  Quạt sạch

      Cám ơn cơn gió vô tư

Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi

      Hạt nào lép cứ bay thôi

Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

(1)    Một bức tranh về mùa gặt ở nông thôn miền Bắc những năm hợp tác hóa nông nghiệp đã được nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả bằng những nét không thể lẫn. Một mùa vàng bát ngát với những cánh đồng lúa chín, với cái nắng tháng năm chói chang, với liềm hái và những cánh cò, với tiếng máy tuốt lúa rộn rã đêm trăng,.... Tất cả tạo nên một không khí đầm ấm, thanh bình mà ta đã từng gặp những nơi thôn quê khi mùa gặt đến.

(2)    […] Đây là không gian mùa gặt. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người. Chỉ nội một chữ “phả” đã gợi được không gian và cái nóng hầm hập của thời tiết. Người ta vẫn nói “cánh cò chở nắng”, còn ở đây nhà thơ thấy cánh cò dẫn gió. Hình ảnh có sự khác nhau, nhưng ấn tượng mà nó đem đến chỉ là một: thiên nhiên chợt có hồn trong một cánh cò mải miết bay ngang. Gió đã có hồn, nó nâng tiếng hát hay chính nó là tiếng hát ấy trên vòm cao chói chang? Đến những lưỡi hái cũng sáng lên như những tia chớp nhỏ, cần mẫn “liếm ngang chân trời”. Bốn dòng thơ trong khổ đầu, cứ một dòng gợi ý niệm cao, lại một dòng gợi ý niệm rộng. Sự kết hợp giữa chúng mở ra một không gian rộng lớn và sống động của những ngày mùa gặt hái nơi đồng quê.

(3)    Chưa hết, không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm: “Mảnh sân trăng lúa chất đầy/ Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình”. Cái sân nông thôn ngày thường rộng thế, nói “sân trăng” thì còn rộng hơn nữa. Cái rộng rãi, đẹp của ánh trăng ngàn đời nơi thôn dã đã gặp gỡ vẻ đẹp của sự no ấm nơi đây, nhường chỗ cho những đồng lúa chất cao ngồn ngộn một vẻ rất đời thường. Hơn thế nữa, những náo nức của mùa gặt đã đánh thức cả ánh trăng vốn tĩnh lặng; dưới ánh trăng, trong nhịp máy quay rộn ràng, những hạt lúa chín mẩy chảy tràn trông như thể “vàng tuôn”. Câu thơ có vẻ sáo, nhưng bù lại, nó đã thể hiện rất hồn nhiên cái tình cảm của một anh nhà nghèo, xoa tay sung sướng trước những thành quả do mình làm ra.

(4)    Ấy vậy nhưng người nông dân ở nhà thơ Nguyễn Duy lại rất hay “cả nghĩ”. Luôn có hai thái cực song hành trong tình cảm của người ấy. Xôn xao náo nức là thế khi mùa gặt đến, nhưng tự đáy lòng mình, người ấy vẫn đắm xuống trong một tình cảm lo xa. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”. Chuyện đời lúa, đời người cứ lẫn vào nhau, đến nỗi nhìn những bó rơm bị vò nát mà cũng thấy “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Lại cả những lo xa đã có từ ngàn đời nảy sinh trên luống cày, vẫn cứ còn nung nấu: “Nắng non mầm mục mất thôi/ Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn”.

    […]

(Trần Hòa Bình, Tiếng hát mùa gặt của Nguyễn Duy, Thơ với lời bình, Nhiều tác giả, tập 2, NXB Giáo dục, 1996)

* Trần Hoà Bình (1956 – 2008) sinh ra tại Hà Tây, là nhà báo, nhà thơ. Ông còn là chuyên gia tâm lý sâu sắc và hóm hỉnh với những lời gỡ rối tâm tình giúp độc giả với bút danh Tầm Thư. Trần Hoà Bình là người đàn ông đa tài. Ông viết báo, làm thơ, vẽ, giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm 2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Và chỉ với bài thơ Thêm một, Trần Hòa Bình ghi tên mình như một thi sĩ tài hoa trên thi đàn Việt Nam đương đại.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?

Câu 2. Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3).

Câu 3. Xác định thành phần biệt lập trong những câu sau:

a. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người.

b. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”.

Câu 4. Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

Câu 5. Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

Câu 6. Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

2
18 tháng 3

Câu 1: Văn bản trên bàn về vấn đề gì? Văn bản bàn về vẻ đẹp của mùa gặt ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, đồng thời khắc họa cảm xúc và tâm tư của người nông dân qua các giai đoạn của mùa gặt như gặt lúa, tuốt lúa, phơi khô, và quạt sạch.

Câu 2: Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3). Câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3) là: “Không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm.”

Câu 3: Xác định thành phần biệt lập trong các câu sau: a. Thành phần biệt lập: “hình như” (thành phần tình thái). b. Thành phần biệt lập: “ấy”, “của một đồng, công một nén là đây” (thành phần tình thái và thành phần giải thích).

Câu 4: Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

  • Cách trích dẫn: Đoạn (2) trích dẫn trực tiếp các hình ảnh và từ ngữ tiêu biểu từ bài thơ như “phả từ cánh đồng lên”, “cánh cò dẫn gió”, và “liếm ngang chân trời”.
  • Tác dụng: Việc trích dẫn này làm nổi bật sự sinh động của không gian mùa gặt, đồng thời tăng tính thuyết phục cho luận điểm khi kết hợp phân tích ngôn ngữ giàu hình ảnh của bài thơ.

Câu 5: Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

  • Vai trò: Các lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (4) làm rõ tính cách “cả nghĩ” của người nông dân. Tâm lý xót xa, lo toan được nhấn mạnh qua các câu thơ trích dẫn như: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi” và “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Những lí lẽ này không chỉ thể hiện chiều sâu trong cảm xúc của người nông dân mà còn làm nổi bật sự gắn bó giữa đời người và đời lúa, qua đó khẳng định sự cần mẫn và ân cần trong lao động.

Câu 6: Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

  • Điều yêu thích: Em thích nhất cách tác giả phân tích và bình luận dựa trên các hình ảnh và ngôn từ giàu cảm xúc của bài thơ.
  • Lý do: Cách phân tích vừa gần gũi, vừa sâu sắc, giúp người đọc hình dung rõ ràng không gian mùa gặt và cảm nhận được cái hồn của bài thơ cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Tác giả còn kết hợp được cả tình cảm chân thành, tạo nên sự lôi cuốn đặc biệt.
18 tháng 3

Cô tick cho em nhé


Đọc văn bản sau:        Khoe lười Anh em chớ bảo ta lười, Làm việc cho hay phải thức thời. Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí, Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi. Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh, Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi. Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu, Anh em chớ bảo ta lười.                                (Tú Mỡ) Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

       Khoe lười

Anh em chớ bảo ta lười,

Làm việc cho hay phải thức thời.

Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,

Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.

Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,

Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.

Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,

Anh em chớ bảo ta lười.

                               (Tú Mỡ)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Đối tượng trào phúng trong bài thơ là ai?

Câu 3. Nhận xét về sắc thái nghĩa của từ “khoe” trong nhan đề “Khoe lười” của bài thơ.

Câu 4. Chủ đề của bài thơ là gì? Nêu một số căn cứ để giúp em xác định chủ đề đó.

Câu 5. Phân tích tác dụng của việc kết hợp từ ngữ chỉ thời gian và từ ngữ miêu tả công việc nên làm trong đoạn thơ sau.

     Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,

     Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.

     Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,

     Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.

Câu 6. Một trong những thông điệp mà bài thơ muốn nhắn nhủ đến bạn đọc đó là không nên có thói xấu trì hoãn công việc trong cuộc sống. Với góc nhìn của một người trẻ, hãy viết đoạn văn khoảng 5 – 7 câu đưa ra giải pháp để loại bỏ thói quen trì hoãn.

0