K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:       Bảo kính cảnh giới bài 21                               - Nguyễn Trãi -      Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,      Xấu tốt đều thì rắp khuôn.      Lân cận nhà giàu no bữa cám,      Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.      Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,      Kết mấy người khôn học nết khôn.      Ở đấng...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

     Bảo kính cảnh giới bài 21

                              - Nguyễn Trãi -

     Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,
     Xấu tốt đều thì rắp khuôn.
     Lân cận nhà giàu no bữa cám,
     Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.
     Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,
     Kết mấy người khôn học nết khôn.
     Ở đấng thấp thì nên đấng thấp,
     Đen gần mực, đỏ gần son.

        (Trích Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 1976)

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. Chỉ ra một câu thành ngữ, tục ngữ được tác giả mượn ý trong văn bản. 

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong dòng thơ cuối. 

Câu 4. Phát biểu đề tài, chủ đề của văn bản. 

Câu 5. Em rút ra được những bài học gì sau khi đọc văn bản?

0
9 tháng 1

### Câu 1: Phân tích nhân vật người họa sĩ trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu Trong đoạn trích, người họa sĩ là một nhân vật có nội tâm phức tạp và sâu sắc. Ông là một người có tài năng và đam mê nghệ thuật mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng là một người khá cô đơn, trăn trở với cuộc sống của chính mình. Người họa sĩ không chỉ tạo ra những bức tranh đẹp mà còn có một khát vọng sâu sắc về cái đẹp đích thực trong cuộc sống, nhưng đôi khi ông lại cảm thấy bất lực trong việc thể hiện được điều đó. Nhân vật này mang trong mình một sự phân vân, đôi khi là mâu thuẫn giữa những gì ông thấy và cảm nhận với cách thức mà ông có thể truyền đạt được qua nghệ thuật. Người họa sĩ sống trong một thế giới tưởng tượng của riêng mình, nơi cái đẹp và sự thật có thể được thể hiện qua những bức tranh. Tuy nhiên, ông lại không thể hoàn toàn hài lòng với những gì mình tạo ra, bởi ông hiểu rằng nghệ thuật chỉ là sự phản ánh hạn chế của thế giới thực. Điều này làm nổi bật một khía cạnh quan trọng của nhân vật – sự tìm kiếm cái đẹp đích thực và sự không ngừng vươn tới sự hoàn thiện trong công việc nghệ thuật của mình. Người họa sĩ không chỉ là người sáng tạo, mà còn là một người chiến đấu với chính bản thân, với cảm giác thiếu thốn về sự hoàn hảo. ### Câu 2: Bàn về cách thể hiện bản thân của giới trẻ hiện nay Giới trẻ hiện nay đang sống trong một thời đại mà công nghệ và các phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện bản thân. Với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội như Facebook, Instagram, TikTok, giới trẻ có thể dễ dàng chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc, và những khoảnh khắc trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, cách thể hiện bản thân của họ cũng đang gặp phải nhiều vấn đề. Trước hết, việc thể hiện bản thân qua các nền tảng mạng xã hội có thể tạo ra sự thiếu chân thật. Nhiều bạn trẻ, đặc biệt là những người trẻ tuổi, thường xuyên "làm đẹp" hình ảnh của mình bằng cách chỉnh sửa ảnh, chia sẻ những khoảnh khắc hào nhoáng, thành công mà không thực sự phản ánh cuộc sống thực tế. Điều này đôi khi tạo ra một sự giả tạo, khiến họ và cả người xem dễ dàng quên đi sự quan trọng của sự thật trong mỗi câu chuyện. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của mạng xã hội cũng khiến nhiều bạn trẻ bị áp lực về việc thể hiện bản thân một cách hoàn hảo. Họ phải luôn cập nhật những xu hướng mới, sở thích mới, và thường xuyên xuất hiện với hình ảnh "đẹp" để nhận được sự công nhận từ cộng đồng mạng. Điều này dễ dẫn đến tình trạng tự ti, lo lắng về bản thân nếu không nhận được đủ sự quan tâm hay lời khen ngợi. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận giới trẻ chọn cách thể hiện bản thân một cách tự nhiên và tích cực hơn. Họ tìm kiếm sự chân thật trong mỗi bài viết, hình ảnh và sự giao tiếp. Họ không ngại thể hiện những điều chưa hoàn hảo về mình, đồng thời cũng mong muốn truyền tải thông điệp về sự chấp nhận bản thân và sống thật với chính mình. Vì vậy, cách thể hiện bản thân của giới trẻ hiện nay là một vấn đề phức tạp. Trong khi sự phát triển của công nghệ và mạng xã hội mang đến nhiều cơ hội để giao lưu và thể hiện cá tính, thì cũng tồn tại không ít thách thức về việc giữ gìn sự chân thật và khắc phục áp lực xã hội. Giới trẻ cần học cách cân bằng giữa việc thể hiện bản thân và sự nhận thức đúng đắn về giá trị của sự chân thật, để không bị lạc lối trong những xu hướng tạm thời hay áp lực từ xã hội.

II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích trong truyện ngắn “Trở về” của Thạch Lam.     [Lược một đoạn: Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính tên Tâm, được người mẹ tần tảo sớm khuya nuôi dạy nên người. Tuy nhiên, khi được ra thành phố học tập và làm việc, trong suốt sáu năm, anh chỉ gửi tiền hàng tháng về cho mẹ, không báo tin mình đã lấy...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)

Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích trong truyện ngắn “Trở về” của Thạch Lam.

    [Lược một đoạn: Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính tên Tâm, được người mẹ tần tảo sớm khuya nuôi dạy nên người. Tuy nhiên, khi được ra thành phố học tập và làm việc, trong suốt sáu năm, anh chỉ gửi tiền hàng tháng về cho mẹ, không báo tin mình đã lấy vợ và tuyệt nhiên không một lời hỏi thăm, không để tâm đến những bức thư mẹ gửi từ quê ra. Khi bất đắc dĩ có việc phải về nhà, anh mới có dịp gặp lại mẹ…].

     Khi vào đến sân nhà, Tâm thấy bốn bề yên lặng, không có bóng người. Cái nhà cũ vẫn như trước, không thay đổi, chỉ có sụp thấp hơn một chút và mái gianh xơ xác hơn. Tâm bước qua sân rồi đẩy cái liếp bước vào. Vẫn cái gian nhà mà chàng đã sống từ thuở nhỏ. Tâm cất tiếng gọi. Chàng nghe thấy tiếng guốc đi, vẫn cái tiếng guốc ấy, thong thả và chậm hơn trước, rồi mẹ Tâm bước vào. Bà cụ đã già đi nhiều, nhưng vẫn mặc cái bộ áo cũ kỹ như mấy năm về trước. Khi nhận ra con, bà cụ ứa nước mắt:

     – Con đã về đấy ư?

    – Vâng, chính tôi đây, bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? – Câu nói như khó khăn mới ra khỏi miệng được.

     – Bà ở đây một mình thôi à?

     Bà cụ cảm động đến nỗi không nói được. Một lát bà mới ấp úng:

     – Vẫn có con Trinh nó ở đây với tôi.

     – Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác Cả không?

     Tâm nhớ mang máng cái cô con gái bé nhỏ ngày trước vẫn hay chơi với chàng.

     – Tôi tưởng cô ta đi lấy chồng rồi.

     Bà cụ ngồi xuống chiếc phản gỗ, đáp:

    – Đã lấy ai đâu. Con bé dở hơi chết đi ấy mà. Cũng đã có mấy đám hỏi, mà nó không chịu lấy.

     Bà cụ yên lặng một lát.

     – Thỉnh thoảng nó vẫn nhắc đến cậu đấy.

     Tâm nhún vai, không trả lời. Tuy ngoài trời nắng, mà Tâm thấy bên trong cái ẩm thấp hình như ở khắp tường lan xuống, thấm vào người. Bà cụ âu yếm nhìn con, săn sóc hỏi: 

     – Năm ngoái bác Cả lên tỉnh về bảo cậu ốm. Tôi lo quá, nhưng quê mùa chả biết tỉnh thế nào mà đi, thành ra không dám lên thăm. Bây giờ cậu đã khỏe hẳn chưa?

     Tâm nhìn ra ngoài đáp:

     – Như thường rồi.

     Rồi muốn nói sang chuyện khác, Tâm hỏi:

     – Ở làng có việc gì lạ không?

     Bà cụ trả lời:

     – Chả việc gì lạ sất, ngày nào cũng như ngày nào, nhưng được có con Trinh sang đây với tôi nên cũng đỡ buồn. Nó thường vẫn làm giúp tôi nhiều công việc, con bé thế mà đảm đang đáo để, đã chịu khó lại hay làm. [….]

     Tâm lơ đãng nghe lời mẹ kể những công việc và cách làm ăn ngày một khó khăn ở làng. Chàng dửng dưng không để ý đến. Con bác Cả Sinh lấy vợ, hay chú bác ta chết thì có can hệ gì đến chàng? Cái đời ở thôn quê với đời của chàng, chắc chắn, giàu sang, không có liên lạc gì với nhau cả. Câu chuyện nhạt dần. Những câu hỏi và sự săn sóc của bà cụ về công việc của chàng chỉ làm cho Tâm khó chịu. Chàng trả lời qua loa lấy lệ. Nghĩ đến vợ đợi, Tâm vội vàng đứng dậy. Bà cụ nhìn theo khẩn khoản:

      – Cậu hãy ở đây ăn cơm đã. Đến chiều hãy ra.

     – Thôi, bà để tôi về. Độ này bận công việc lắm.

      Tâm lại an ủi:

     – Nhưng thế nào có dịp tôi cũng về.

     Rồi Tâm mở ví lấy ra bốn tấm giấy bạc 5 đồng đưa cho mẹ. Tâm hơi kiêu ngạo, trước mặt cô Trinh, chàng nói:

     – Đúng hai chục, bà cầm lấy mà tiêu, có thiếu tôi lại gửi về cho.

    Bà cụ run run đỡ lấy gói bạc, rơm rớm nước mắt. Tâm làm như không thấy gì, vội vàng bước ra. [….]

     (Trích Trở về, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2004, tr.24-27)

* Chú thích: Thạch Lam là cây bút xuất sắc trong nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh năm 1910 tại Hà Nội, tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi tên là Nguyễn Tường Lân, bút danh Thạch Lam. Tác phẩm hướng về đời sống bình dị, tình cảm nghiêng về người nghèo, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Lối viết trữ tình hướng nội, khơi sâu vào đời sống bên trong với những rung động và cảm giác tế vi.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM) Đọc văn bản sau:           HƠI ẤM Ổ RƠM          (Nguyễn Duy)   Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm   Bà mẹ đón tôi trong gió đêm:   – Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ   Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ     Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm.   Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm,   Tôi thao thức trong hương mật ong của...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:    

      HƠI ẤM Ổ RƠM

 

       (Nguyễn Duy)

 

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm

 

Bà mẹ đón tôi trong gió đêm:

 

– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ

 

Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ

 

 

Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm.

 

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm,

 

Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng

 

Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

 

 

Của những cọng rơm xơ xác gầy gò. 

 

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no

 

Riêng cái ấm nồng nàn như lửa

 

Cái mộc mạc lên hương của lúa

 

Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.

 

(In trong tập Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973)

 

* Chú thích:

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Bài thơ thể hiện cảm xúc trước một cuộc gặp gỡ tình cờ đầy ấm áp. Cho biết ai là người bộc lộ cảm xúc và đó là cuộc gặp gỡ giữa ai với ai.

Câu 3. Chỉ ra biện pháp tu từ trong hai dòng thơ sau và nêu tác dụng của nó.

             Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

             Của những cọng rơm xơ xác gầy gò.

Câu 4. Nhận xét về hình ảnh “ổ rơm” xuất hiện trong bài thơ.

Câu 5. Xác định cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”.

Câu 6. Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ.

0
II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)  Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn “Bà lái đò” của nhà văn Nguyễn Công Hoan.  Bà lái đò      Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoài bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông,...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)

 Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn “Bà lái đò” của nhà văn Nguyễn Công Hoan.

 Bà lái đò

     Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoài bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông, đang vót tre bằng con dao nhọn. Thấy tiếng động, người ấy quay nhìn chúng tôi và có ý hớt hải, thu xếp các thứ rồi một tay cầm dao, một tay dắt con, nhảy xuống thuyền. Bà ta lay nhổ vội vàng cái sào cắm chặt vào bùn, rồi đẩy mạnh chiếc thuyền nan. Con thuyền chổng mũi lên trời, vỗ sóng đành đạch, nhảy chồm ra xa. Nhưng không hiểu sao tự nhiên nó quay lại ghé vào bờ. Đồng chí Việt Nam muốn chừng hiểu ý, nói:

    – Bà cho chúng tôi sang sông với chứ. Sáu người chở không nặng lắm đâu.

     – Vâng, cháu ghé vào chỗ khô để các ông khỏi lấm giầy.

     Chúng tôi xuống thuyền, ngồi thăng bằng thì thuyền quay mũi. Chúng tôi duỗi chân cho đỡ mỏi, rồi lấy thuốc lá ra hút. Chúng tôi nói chuyện với nhau về các khúc sông bên châu Âu. Gió hiu hiu lướt trên da chúng tôi mát rượi. Sóng phản ánh vàng, mặt nước chói như gương. Quá nửa bên này, yên lặng, thuyền tới chỗ chảy xiết. Chúng tôi phải vịn vào nhau để ngồi cho vững. Bỗng tự nhiên con thuyền chòng chành, đảo lộn đi, hất thằng bé con xuống nước. Đồng thời chúng tôi nghe tiếng bùng bục: người đàn bà tay cầm con dao nhọn đang xỉa đâm nát cả phía lái. Nước ùa vào và trong khoảnh khắc, cả chúng tôi băng ra giữa dòng. Trước thế nguy, chúng tôi giữ bình tĩnh.

     – Anh em! Phải cứu lấy đàn bà và trẻ con!

     Lệnh đưa ra, chúng tôi hết sức. Chúng tôi chống nhau với sóng, với xoáy, để đuổi kịp những cái đầu lúc nhô lên, lúc thụt xuống, theo đà nước đỏ ngầu. Anh Bảo – tên Việt Nam của đồng chí Đức – đã nhanh tay ôm được thằng bé và cõng nó vào bờ. Còn chúng tôi đuổi theo người mẹ. Nhưng hễ nắm được cánh tay, thì người đàn bà quái gở ấy lại giãy giụa, hình như muốn chạy trốn. Nhưng không thể. Chúng tôi phải cứu. Và sau hết, bà ta cũng được dìu vào bờ. Chúng tôi đặt hai mẹ con nằm trên cỏ, xúm lại chữa. Cả hai người đã nôn ra được nhiều nước và đã thở được đều.

     Chừng nửa giờ sau, bà lái đò mới mở đôi mắt mệt nhọc nhìn chúng tôi, thở dài, nhắm mắt lại. Biết rằng bà ta đã tỉnh, đồng chí Việt Nam hỏi:

     – Tại làm sao bà nỡ xử với chúng tôi như thế?

     – Họ là người Pháp, chúng tôi không chở cho giặc!

     Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam mỉm cười:

     – Các đồng chí này không phải là người Pháp mà là người châu Âu, giúp Chính phủ ta đánh Pháp đấy bà!

     Bà lái đò uể oải nhìn chúng tôi một lượt, rồi không hiểu bà ta có tin hay không, lại thấy bà ta nhắm mắt như trước.

     – Thế nếu các đồng chí này là người Pháp, sao bà còn để xuống thuyền?

     – Tôi cũng tính chạy, nhưng sau sực nghĩ ra là các ông có súng, không để các ông xuống cũng chết. Đằng nào cũng chết, thà tôi chết mà giết được tất cả có hơn không?

     Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam lắc đầu hồi hỏi:

     – Nhà bà ở đâu?

     – Tôi không có nhà, chỉ có chiếc thuyền ấy.

     – Thế gia đình bà có những ai? Chúng tôi muốn vào thăm.

     – Tôi góa, chỉ có một thằng bé.

     Bà mở mắt ra nhìn con, rồi quờ tay sờ trán và ngực nó.

(Trích Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan)

* Chú thích: Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977), sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế ở Hưng Yên. Ông là một nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học. Một số tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn gồm Kép Tư Bền (1935), Đào kép mới (1937)…; Tiểu thuyết gồm Lá ngọc cành vàng (1935), Ông chủ (1935), Bước đường cùng (1938)… Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc văn bản sau:      (1) Blog được ghép từ hai chữ “web log” là một loại nhật kí trực tuyến, mặc dù xuất hiện từ những năm đầu của thập kỉ 1990 nhưng chỉ thực sự phát triển trong vòng 5 – 6 năm trở lại đây. […] Sự phát triển của blog nói riêng và của cộng đồng mạng nói chung cho thấy nhu cầu được giao lưu, chia sẻ, được mọi người biết...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:

     (1) Blog được ghép từ hai chữ “web log” là một loại nhật kí trực tuyến, mặc dù xuất hiện từ những năm đầu của thập kỉ 1990 nhưng chỉ thực sự phát triển trong vòng 5 – 6 năm trở lại đây. […] Sự phát triển của blog nói riêng và của cộng đồng mạng nói chung cho thấy nhu cầu được giao lưu, chia sẻ, được mọi người biết đến, và có tiếng nói là những nhu cầu hết sức cơ bản của con người. […]

     (2) Mỗi một blog là một kênh trao đổi thông tin mở. Không chỉ tác giả mà cả những khán giả có thể vào xem và viết bình luận. Tính năng liên kết cho phép nối kết một blog với nhiều blog khác, và nhờ đó tạo nên một mạng lưới blog toàn cầu. Công nghệ hiện đại cũng cho phép có thể đưa được ảnh, nhạc và video lên blog. Như vậy, có nghĩa là blog đã thực sự trở thành nguồn tin tức mở, và mỗi blogger theo một nghĩa nào đó đã trở thành một “nhà báo công dân”.

     (3) Việc một blog có thể trở thành một nguồn tin mở, và mỗi một blogger có thể trở thành một nhà báo công dân chắc chắn sẽ có tác động đến việc làm báo truyền thống. Tuy nhiên, tác động cụ thể của nó như thế nào thì có lẽ còn phải chờ thời gian mới đánh giá được một cách chính xác. Chẳng hạn như theo Friedman, tác giả của “Thế giới phẳng”, trong vụ đánh bom tàu điện ngầm ở London, chỉ trong vòng 24 giờ, BBC đã nhận được 20.000 bài viết qua thư điện tử, hơn 1.000 bức ảnh và hơn 20 đoạn video. Việc thẩm định, chọn lọc và sử dụng những nguồn tư liệu hết sức đồ sộ, phong phú và đa dạng này thực sự là một thách thức chung cho làng báo truyền thống: một mặt, họ rất muốn có một cách nhanh nhất những thông tin trực tiếp, từ nhiều góc độ khác nhau, đại diện cho nhiều tiếng nói khác nhau, mặt khác, việc chọn lọc, xử lí, biên tập những tin này quả thực không đơn giản.

(Vũ Thành Tự An, Blog và nền báo chí công dân, trích Một góc nhìn của tri thức, NXB Tri thức, tr.115)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản được diễn đạt bởi yếu tố nào là chính?

Câu 2. Chọn câu văn thể hiện luận điểm ở đoạn (2).

Câu 3. Em có nhận xét gì về cách người viết trình bày bằng chứng trong đoạn (3)?

Câu 4. Tìm chủ ngữ, vị ngữ trong câu văn “Như vậy, có nghĩa là blog đã thực sự trở thành nguồn tin tức mở, và mỗi blogger theo một nghĩa nào đó đã trở thành một “nhà báo công dân”. Cho biết câu văn này là câu ghép đẳng lập hay câu ghép chính phụ?

Câu 5. Hiện nay, khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, báo mạng, blog là một trong những phương tiện cung cấp thông tin nhanh chóng, tiện lợi. Trong bối cảnh này, theo em báo chí truyền thống có vai trò như thế nào? (Viết đoạn văn khoảng 5 – 7 câu thể hiện quan điểm của bản thân)

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:       Bảo kính cảnh giới bài 21                               - Nguyễn Trãi -      Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,      Xấu tốt đều thì rắp khuôn.      Lân cận nhà giàu no bữa cám,      Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.      Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,      Kết mấy người khôn học nết khôn.      Ở đấng...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

     Bảo kính cảnh giới bài 21

                              - Nguyễn Trãi -

     Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,
     Xấu tốt đều thì rắp khuôn.
     Lân cận nhà giàu no bữa cám,
     Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.
     Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,
     Kết mấy người khôn học nết khôn.
     Ở đấng thấp thì nên đấng thấp,
     Đen gần mực, đỏ gần son.

        (Trích Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 1976)

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. Chỉ ra một câu thành ngữ, tục ngữ được tác giả mượn ý trong văn bản. 

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong dòng thơ cuối. 

Câu 4. Phát biểu đề tài, chủ đề của văn bản. 

Câu 5. Em rút ra được những bài học gì sau khi đọc văn bản?

2

trang cá nhân của Đỗ Hưng Thịnh là j


8 tháng 1

ai tích cho tớ thì tớ tặng cion

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:        Việt Nam quê hương ta       Việt Nam đất nước ta ơi! Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.       Cánh cò bay lả dập dờn, Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.       Quê hương biết mấy thân yêu, Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau.       Mặt người vất vả in sâu, Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.       Đất...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:

       Việt Nam quê hương ta

      Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.
      Cánh cò bay lả dập dờn,
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
      Quê hương biết mấy thân yêu,
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau.
      Mặt người vất vả in sâu,
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.

      Đất nghèo nuôi những anh hùng,
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên.
      Đạp quân thù xuống đất đen,
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
      Việt Nam đất nắng chan hoà,
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh.
      Mắt đen cô gái long lanh,
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung.

      Đất trăm nghề của trăm vùng,
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem.
      Tay người như có phép tiên,
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ.

      Nước bâng khuâng những chuyến đò,
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi.
      Đói nghèo nên phải chia ly,
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường.

      Ta đi ta nhớ núi rừng,
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ.
      Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô,
Bữa cơm rau muống quả cà giòn tan...

                             (Trích trường ca Bài thơ Hắc Hải, 1958, Nguyễn Đình Thi)

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ. 

Câu 2. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ. 

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ trong khổ thơ sau: 

      Ta đi ta nhớ núi rừng,
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ.
      Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô,
Bữa cơm rau muống quả cà giòn tan...

Câu 4. Con người Việt Nam hiện lên trong bài thơ với những phẩm chất nào?

Câu 5. Phát biểu đề tài, chủ đề của bài thơ. 

0