K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trong Nhật kí trong tù ta luôn thấy có sự đối lập giữa một thế giới “trong tù” hà khắc, đói rét, bệnh tật, đầy sự khổ đau và một thế giới tâm hồn người tù thanh tao, lạc quan, tràn đầy hi vọng, tình yêu thương. Nó khiến hơn 100 bài thơ trong Nhật kí trong tù không hề bi luỵ mà ở đó, hình ảnh người tù hiện lên như một “tiên ông”, một khách du lãng xuống vườn trần. Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ điều này:

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Ngắm trăng là đề tài quen thuộc của thi ca phương Đông. Đó là một thú vui tao nhã của các tao nhân mặc khách. Không biết tự bao giờ, trăng đã trở thành người bạn thơ, trở thành nguồn cảm hứng dồi dào cho những tâm hồn nhiều xúc cảm. Nhưng người ta chỉ ngắm trăng trong những lúc thanh nhàn, tâm hồn thư thái. Vậy mà trong những tháng ngày bị giam cầm, mất tự do, Bác Hồ của chúng ta vẫn ngắm trăng và làm thơ.

Tìm đến với trăng, Hồ Chí Minh tìm đến với vẻ đẹp vĩnh hằng của tạo hoá nhưng cũng là tìm đến với người bạn tri âm, đối ảnh của mình trong những tháng ngày gian khổ. Điều đó đã tạo nên một hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt và một giọng thơ độc đáo cho thi phẩm. Câu thơ mở đầu đã mở ra một cảnh sống trong tù: Trong tù không rượu cũng không hoa.

Câu thơ mở ra một hiện thực trần trụi. Hai từ “không” xuất hiện như một sự khẳng định tuyệt đối sự vắng mặt của “rượu” và “hoa”. Giữa bao nhiêu thiếu thốn, đắng cay của kiếp sống trong tù vậy mà nhà thơ lại đưa ra sự thiếu thốn về “rượu” và “hoa” – những đối tượng phục vụ cho đời sống tinh thần, thuộc về những thú vui tao nhã.

Đó có thể coi là những thứ xa xỉ của kiếp sống tù đày. Nhưng không phải ngẫu nhiên, nhà thơ đề cập đến rượu và hoa. Bởi tâm hồn nhà thơ đang hướng ra một thế giới khác. Thế giới đó đối lập với cuộc sống trong tù. Thế giới đó đang tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;

Câu thơ thứ hai chính là lí do của câu thơ thứ nhất, làm điểm tựa cho câu thơ đầu. Thì ra trước cảnh đẹp của buổi đêm làm Người nhớ tới rượu và hoa thấp thoáng một nỗi băn khoăn, đầy thơ mộng. Tất cả giúp người đọc nhận ra một người tù đặc biệt, với một tâm hồn thanh cao, khao khát hòa nhập với thiên nhiên, đất trời. Cụm từ “nại nhược hà” (làm thế nào bây giờ ?) nghĩa là có cái lúng túng, băn khoăn của con người trước cảnh đẹp.

Cảnh đẹp hiện ra trước mắt thi nhân trong khi bên mình chẳng có những thứ vốn thuộc thú vui thanh cao, tao nhã để cùng thưởng thức: đó là rượu và hoa. Một niềm băn khoăn rất nghệ sĩ đi bên cạnh cái trơ trụi, khốc nghiệt của nhà tù. Hai câu thơ đầu làm bộc lộ nên cái thiếu thốn của chốn lao tù nhưng câu thơ không hề có chút bi luỵ. Một giọng điệu thơ hóm hỉnh, có chút bông đùa trong cách vào đề đầy bất ngờ: Trong tù không rượu cũng không hoa.

Vẫn chưa có một từ ngữ cụ thể nào chỉ con người nhà thơ nhưng thi nhân đã hiện lên với một bản lĩnh vững vàng của một con người biết vượt lên trên những gian khổ của đời sống tù ngục để giữ nguyên vẹn một tâm hồn thanh tao, nhạy cảm, tinh tế, biết rung động trước mọi vẻ đẹp của đất trời. Đến câu thơ thứ ba, ánh trăng mới xuất hiện trực tiếp trước con mắt đắm say của người tù:

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Cảnh thưởng trăng ở đây thật đặc biệt. Đặc biệt trong sự giản dị không có rượu có hoa. Đặc biệt bởi vị thế của người ngắm trăng không phải là người thanh nhàn, một tao nhân mặc khách mà là một người tù bị giam hãm, xiềng xích trong bốn bức tường với muôn nghìn khổ cực.

Nhưng tâm hồn của người tù đó đã vượt thoát khỏi bốn bức tường của nhà lao để mở rộng chào đón chân thành và tha thiết người bạn đặc biệt của mình. Tất cả thu vào một hành động ngắm, nhòm kì lạ ; nhìn nhau qua chấn song sắt của nhà tù. Hai câu thơ chữ Hán đã lột tả được đầy đủ cảnh thưởng trăng đặc biệt này:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Hai đầu của hai câu thơ là người và trăng (Nhân – nguyệt, nguyệt – thi gia) và giữa hai vế của mỗi câu, giữa trăng và người tù là song sắt nhà giam tàn bạo. Hiện thực tàn bạo của nhà tù vẫn len lỏi vào cuộc sống tinh thần của người tù. Nó như muốn ngăn cách người tù và trăng. Tất cả làm cho cuộc sống trong tù và làm cho buổi thưởng trăng thật rõ ràng, sống động. Ở đây, người tù đã một lần nữa vượt qua và chiến thắng được hiện thực tù đày.

Người tù ấy đã quên đi cuộc sống lao khổ của chốn tù đày để tâm hồn vượt thoát, bay bổng, hòa vào với vẻ đẹp của ánh trăng. Động từ “hướng” không chỉ là cử động của một cái nhìn mà là sự thức dậy của cả một tâm hồn đầy say đắm. Hình như trăng đã hiểu tâm hồn người tù, hiểu được tình cảm chân thành của người tù nên cũng có một hành động đầy tình cảm: Nguyệt tòng song khích khán thi gia. Ánh trăng xuyên thấu nhà tù để nhìn lại, chia sẻ với người tù.

Ánh trăng như ánh mắt, như gương mặt con người, có tâm hồn, có tình cảm và đầy sự đồng cảm. Trăng đâu chỉ còn là đối tượng thiên nhiên, là vẻ đẹp chỉ để thưởng thức mà ở đây trăng đã trở thành kẻ tâm giao, tri kỉ của người tù. Hành động của trăng là hành động của những người bạn đã thấu hiểu tâm hồn của nhau.

Trăng nhìn người, người nhìn trăng. Và phút giao cảm thiêng liêng ấy đã khiến mọi đau thương, gian khổ, tăm tối của cuộc sống ngục tù tan biến. Tâm hồn con người nhẹ nhõm, thăng hoa, khiến tù nhân thoắt biến thành thi nhân. Chữ “nhân” trong câu thơ thứ ba Bác dùng để chỉ người ngắm trăng, nhưng đến chữ cuối cùng của bài thơ, người ngắm trăng đã biến thành thi nhân. Có một điều kì lạ, bài thơ Ngắm trăng là một trong số ít những bài thơ Bác tự nhận mình là thi nhân.

Cuộc sống nhà tù là vô nhân đạo. Nhưng đằng sau đó, không đơn giản chỉ là một trái tim biết rung cảm trước cái đẹp vĩnh hằng của tạo hóa, mà còn là một tâm hồn mạnh mẽ, ngập tràn sức sống, dám vượt qua hiện thực trần trụi của nhà tù để giao hòa với thiên nhiên, đất trời. Nếu không phải là một tâm hồn nghệ sĩ, không phải là một bản lĩnh thép của một người chiến sĩ kiên cường thì Bác không thể vượt qua chính mình trong hoàn cảnh đó.

Ngắm trăng là một bài thơ chứa nhiều sức nặng, một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ còn là một nét đẹp của tâm hồn yêu đời và khao khát tự do.

18 tháng 7 2021

Ngắm trăng là bài thơ được trích trong tập Nhật kí trong tù, đây là thời gian bác ngồi trong tù và sáng tác nên những vần thơ rất hay.

Bài thơ được Bác viết trong một đêm trăng đẹp, nhìn qua khe cửa sổ thưởng thức một đêm trắng với khung cảnh trong tù nhưng vẫn ung dung, tự tại.

Qua bài thơ vẻ đẹp tâm hồn của Bác được thể hiện rất rõ nét:

Vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn trong ngục tù Bác vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng, thưởng thức một đêm trăng đẹp đúng nghĩa. Điều đó thể hiện tâm hồn cao đẹp, giao hòa cùng thiên nhiên của một người nghệ sĩ chân chính.

Bài thơ ngắm trăng cũng nói lên tinh thần thép của Bác, vượt qua mọi gian khổ khó khăn bị giam cầm trong ngục tù nhưng Bác vẫn yêu và hướng đến cái đẹp, hướng đến bầu trời tự do nơi có những ánh sáng lung linh của đêm trăng đẹp. Đó cũng là tinh thần vượt lên mọi khó khăn vươn đến những điều tốt đẹp hơn của những người chiến sĩ cách mạng kiên cường, không khuất phục số phận.

Bài thơ Ngắm trăng được viết trong hoàn cảnh không như những bài thơ ngắm trăng thông thường khi Bác đang ở hoàn cảnh ngặt nghèo của xiềng xích kẻ thù giam cầm. So với bài thơ “Rằm tháng giêng” hay là “Tin thắng trận” hoàn cảnh sáng tác và thưởng thức đêm trăng có khác nhau nhưng đều toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Bác, đó là vẻ đẹp chung của những người chiến sĩ cách mạng.

Tìm 3 đề văn nghị luận:                                                                                                                                              1) Vấn đề nghị luận được đặt ra từ 1 mẩu chuyện.   ( 3 đề)                                                                                                               ...
Đọc tiếp

Tìm 3 đề văn nghị luận:                                                                                                                                              1) Vấn đề nghị luận được đặt ra từ 1 mẩu chuyện.   ( 3 đề)                                                                                                                2) Tin tức báo chí.                       (3 đề)                                                                                                                                     3) Một câu nói, nhận định.    (3 đề)                                                                                                                               5) Từ văn bản văn học      (3 đề)

0

ĐÁp án

Người đàn ông thứ 3 là người bảo vệ đại dương.

Học tót!!!

- 5 câu đơn là :
1. Tôi / đi học.

2. Lan / là học sinh giỏi lớp em.
3. Bố em / làm công nhân.
4. Cô giáo em / rất hiền.
5.Trâm / là bạn thân của Vy.
- 5 câu ghép là :
1.Trời / mưa to nên đường / rất trơn.
2.Trời / ầm ầm giông gió,biển / đục ngầu giận dữ.
3.Bầu trời / quang đãng,những đám mây / trôi bồng bềnh.
4.Con mèo / bắt chuột,con chó / canh nhà.
5.Chúng em / ca hát,chim / hót líu lo.

7 tháng 7 2021

Bạn tham khảo !

Tinh thần trách nhiệm là một trong những phẩm chất đáng quý nhất của con người. Tinh thần trách nhiệm là ý thức thực hiện tốt nghĩa vụ, công việc bản thân, không ỷ lại, dựa dẫm hay đùn đẩy cho người khác. Trong công việc và cả cuộc sống, tinh thần trách nhiệm chiếm một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là nguồn động lực thúc đẩy ta nỗ lực và hoàn thiện bản thân trước những khó khăn, thử thách. Đồng thời, nhờ có phẩm chất này, ta có thể chiếm được lòng tin, sự tôn trọng và yêu quý từ người khác, từ đó, dễ dàng vươn tới thành công hơn. Trái với tinh thần trách nhiệm là thói vô trách nhiệm. Thói xấu này đáng bị phê phán là lên án. Là học sinh, chúng ta cần phải xây dựng tinh thần trách nhiệm từ những hành động nhỏ hàng ngày: từ hoàn thành bài tập, tuân thủ luật giao thông, dũng cảm nhận và sửa lỗi khi phạm sai lầm. Hãy có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội !

Ngày nay, tinh thần trách nhiệm cá nhân của học sinh, sinh viên đã phai mờ sau bao thế hệ, chính vì thế nên tinh thần "sống có trách nhiệm" rất cần thiết đối với tất cả chúng ta lúc này. Vào năm 2007, chính sách giáo dục thành phố Hồ Chí Minh cũng đã sử dụng chủ đề "sống có trách nhiệm" để làm chủ đề chính cho năm học, nhằm giúp học sinh rèn luyện tư chất bản thân và nâng cao kĩ năng sống, tinh thần trách nhiệm vốn có".Sống có trách nhiệm là làm tròn nghĩa vụ bổn phận với xã hội, trường lớp, gia đình và bản thân... dám làm, dám chịu trách nhiệm về những hành động của bản thân. Bổn phận là học sinh, là những tinh hoa tương lai của đất nước. Chúng ta phải có trách nhiệm với bản trách nhiệm với gia đình, những người xung quanh và có trách nhiệm trong quá trình học tập.Và vấn đề, cũng như trách nhiệm chính yếu của mỗi học sinh chính là học tập. Trong học tập, chúng ta cần phải chú tâm và biết tìm tòi, khám phá. Kiến thức không chỉ gói gọn trong những trang sách mà còn trải dài ra thế giới bao la nhiệm vụ của mỗi học sinh là sử dụng sách vở để dẫn dắt ta ra thế giới kiến thức đó, tìm kiếm và thu thập những tài liệu quý báu cho bản thân, trau dồi kinh nghiệm thực tế để giúp đỡ ta trong quá trình học tập. Mặt khác, cách học và đạo đức trong việc học cũng có ý nghĩa không kém. Không phải học nhồi nhét là tốt, mà học phải đi đôi với hành, vận dụng những kiến thức được học vào đời sống để làm cuộc sống ý nghĩa hơn mới gọi là học. Và tránh ngay kiểu học vẹt, học qua loa cho xong, vì đó chính là những cách học giết chết tri thức bạn. Bên cạnh đó, ta phải biết tự điều chỉnh hành vi trong việc học, giữ cho tâm mình ngay thẳng thật thà là một điều tốt. Giả sử như trong một bài kiểm tra nào đó, ta có hành vi gian lận thì đó chính là vô trách nhiệm với bản thân. Đây không phải là trịnh trọng hóa vấn đề, nhưng thử nghĩ xem, ta làm một lần thì khả dĩ sẽ có lần thứ hai, thứ ba, tương lai chúng ta sẽ ra sao nếu như cứ mãi quen thói lừa dối và ỷ lại? Vận mệnh đất nước sẽ thế nào nếu rơi vào tay một kẻ như thế?"Live each day as it come!" (Sống trọn vẹn mỗi ngày khi nó đến) là một trong những câu châm ngôn hay và rất đúng đắn với mỗi chúng ta. Sống có trách nhiệm còn là sống trọn vẹn mỗi ngày, không lãng phí từng phút từng giây. Tức là ta phải sống sao cho ý nghĩa với mọi việc, mọi người mà ta trách nhiệm. Phải hoàn thành tốt công việc được giao hoặc tự mình đặt ra kế hoạch cho bản thân, sắp xếp thời gian biểu để dành cho bản thân những giây phút khuây khỏa mà trong điều kiện, ta có khả năng và xứng đáng được tận hưởng. Ta sẽ phải dành thời gian cho người thân, bạn bè và những người quanh mình theo cách này hay cách khác. Tất nhiên sẽ không dễ dàng gì làm được tất cả mọi việc một cách trọn vẹn, nhưng làm tốt được một trong những việc ta phải làm mỗi ngày sẽ mang lại cho ta một niềm phấn khởi, vui vẻ và tận hưởng cuộc sống một cách nhiệt thành hơn.

Bạn tham khảo ạ !

28 tháng 6 2021

MẶT VUÔNG CHỮ ĐIỀN À

mặt trái xan đẹp trai thế

25 tháng 6 2021

Bạn có thể tham khảo nhé !

GỢI Ý THÂN BÀI

I. GIẢI THÍCH -

Thơ: Thể loại văn học thuộc phương thức trữ tình, bắt nguồn cảm xúc của con người, đặc điểm ngôn từ hàm súc, cô đọng, giàu nhạc tính. - Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ: Khi sáng tác thơ, nhà thơ gửi gắm tâm tư, tình cảm vào tác phẩm. - Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình: Khi tiếp nhận tác phẩm thơ, người đọc thấy được chính mình, nhận ra những cảm xúc của bản thân, cảm thấy được chia sẻ, cảm thông. ==> Chốt: Câu nói của Lưu Quý Kỳ đề cập đến đặc trưng cảm xúc của thơ. Đối với thơ, tình cảm là cội nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ và đồng thời cũng là cầu nối để khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc.

II. BÀN LUẬN Câu nói của Lưu Quý Kỳ là đúng đắn.

👉1. Vì sao “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ”? - Thơ là tiếng nói của cảm xúc, tác phẩm thơ chỉ thành hình khi nhà thơ có được những cảm xúc mãnh liệt. “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy” (Tố Hữu), “Thơ ca có một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại, nó ra đời từ những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế” (Hoài Thanh) ==>Bản chất của thơ ca chính là người thư kí trung thành của trái tim, chuyên chở, kết nối, sẻ chia sẻ tâm tư, tình cảm của con người. Nhờ thơ, tình cảm của nghệ sĩ mới được nói ra trọn vẹn. - Đối với mỗi nhà thơ, động lực của quá trình sáng tạo là nhu cầu được bày tỏ, được thấu hiểu, được sẻ chia. Để thể hiện được những cung bậc cảm xúc mãnh liệt nhưng đồng thời sâu sắc, đa dạng, khó nắm bắt thì cần đến thơ ca. Thơ ca với những khoảng lặng của mình có thể biểu đạt được cảm xúc, bày tỏ được những tâm tình khó nói và những chiều sâu trong tâm hồn.

👉2. Vì sao Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình? - Thơ ca có tính cá thể hóa và tính khái quát hóa. Cảm xúc làm nên thơ ban đầu là rung cảm của một cá nhân, nhưng sự rung cảm ấy có sức khái quát lớn lao, có tính nhân loại và vì thế có thể chạm được vào trái tim người đọc, để họ như thấy mình trong bài thơ ấy. - Về phương diện tiếp nhận, trong quá trình đọc tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm thơ nói riêng, người đọc sẽ sống trong thế giới nghệ thuật được gợi ra từ tác phẩm, sẽ soi chiếu bản thân vào những điều tác giả gửi gắm, nhập thân vào các hình tượng thơ ca để trải nghiệm, để sống, để thấu hiểu ==>Qua quá trình đọc thơ, họ tìm thấy tâm tình của chính mình.

III. CHỨNG MINH

👉Định hướng chứng minh: Chọn được đoạn thơ hay, đặc sắc, ấn tượng, tiêu biểu và phân tích theo 2 câu hỏi: 1. Tâm tình của nhà thơ thể hiện trong đoạn thơ ấy như thế nào? 2. Người đọc tìm thấy tâm tình của mình trong đoạn thơ ấy như thế nào?

👉Dẫn chứng minh họa: “Ánh trăng” (Nguyễn Duy) “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình”. 1. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã gửi gắm tâm tình của bản thân qua hình tượng nhân vật trữ tình. Đó là nỗi ăn năn, day dứt, tự vấn lương tâm, là sự thức tỉnh lương tri nơi sâu thẳm tâm hồn. + Cuộc gặp gỡ giữa ánh trăng và con người đã buộc con người phải đối mặt với quá khứ, với lương tâm của chính mình. “Ánh trăng lãng du đã gặp con người lãng quên, và con người không thể chạy trốn chính mình được nữa” (Vũ Dương Quỹ). + Trăng “im phăng phắc”: Cái im lặng nghiêm khắc mà bao dung. + Con người “giật mình”: nhận ra bản thân quá vô tâm, quá thờ ơ, đã phản bội quá khứ nghĩa tình; nhận ra dù cho mình đã vô tình thì vầng trăng vẫn ở đó, vẫn vẹn nguyên, chung thủy và bao dung. ==> Cái giật mình ấy không chỉ là của nhân vật trữ tình mà còn là của người đọc, những người đã quên và sẽ quên, nó truyền đến bài học về sự ăn năn trong cuộc sống. Về bản chất, sự ăn năn là kết quả của quá trình đấu tranh giữa thiện – ác, bóng tối – ánh sáng, cao cả - thấp hèn, vị tha – vị kỉ trong mỗi con người, là khi người ta dám thừa nhận phần tối của tâm hồn, dám thay đổi để hướng tới những điều tốt đẹp ==>Tâm tình của nhà thơ đã chạm vào trái tim người đọc. 2. Để mỗi khi đọc “Ánh trăng”, người đọc cũng giật mình nhận ra chính bản thân. (Học sinh dựa vào trải nghiệm của bản thân để viết phần này).

IV. TỔNG KẾT - Với thơ, tâm tình là yếu tố then chốt, là cầu nối giữa nhà thơ và bạn đọc, quá trình sáng tạo và quá trình tiếp nhận. Nhờ có thơ ca mà nhà thơ và người đọc tìm được sự đồng điệu trong tâm hồn. - Tuy việc tìm được tiếng nói tri âm là hạnh phúc lớn lao của thi sĩ, nhưng không vì thế mà anh được phép quên đi tiếng nói của chính mình, chạy theo thị hiếu mà bán rẻ bản ngã nghệ thuật. - Để nhà thơ có thể gửi gắm tâm tình, và để người đọc có thể nhận ra tâm tình của mình trong thơ, cần hình thức nghệ thuật độc đáo, sáng tạo, phù hợp.

BẠ N ĐỌC CÁI NÀY NÈ

19 tháng 6 2021

Bạn tham khảo nhé !
 

Câu văn trên gợi cho em những cảm xúc mơn man, xao xuyến, náo nức về ngày đầu tiên đi học.

Tôi còn nhớ rõ ngày đầu tiên đi học ấy. Tôi còn nhớ đó là một buổi sang mùa thu thật đẹp. Hôm đó mẹ đưa tôi đến trường. Bầu trời trong xanh, nắng vàng như mật ong trải khắp sân trường. Ngôi trường thật lớn và rất đông người. Trong mắt tôi lúc này các gì cũng thật mới lạ. Tôi rụt rè nép bên mẹ, không dám rời tay. Nhưng cô giáo đã đến bên tôi dịu dàng vỗ về. Cô đón tôi vào lớp và giới thiệu với các bạn để làm quen. Cái lo sợ và hồi hộp trong em tự nhiên biến mất. Không còn sợ hãi như lúc trước nữa tôi say mê hòa lắng nghe bài giảng của cô, lời cô giáo giảng bài rất hay, lôi cuốn tôi quên cả thời gian đang dần trôi. Buổi học đầu tiên hôm ấy rất hay và thú vị

19 tháng 6 2021

Từ xa xưa, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng yêu nước đã trở thành một đề tài lớn xuyên suốt các tác phẩm văn học. Có thể nói cùng với cảm hứng yêu nước, tinh thần nhân đạo là truyền thống có tính muôn thuở của thi ca cũng như của các nhà văn. Chính vì thế nên dù viết theo khuynh hướng hay trào lưu nào tinh thần nhân đạo vẫn thấm đậm trong từng tác phẩm. Và khi nhận xét về tinh thần nhân đạo trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945, có ý kiến cho rằng: Dù được sáng tác theo trào lưu lãng mãn hay hiện thực, những trang viết của các nhà văn đầy tài năng và tâm huyết đều thắm đượm tinh thần nhân dạo sâu sắc. Điều đó thế hiện rõ trong nhiều tác phẩm mà tiêu biểu là Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng và Lão Hạc của Nam Cao.

Nói đến tinh thần nhân đạo là nói đến mối quan hệ giữa con người với con người, những gì vì con người, cho con người, cho sự tốt đẹp của bản thân mỗi con người, cho cộng đồng thế giới loài người ... đều nằm trong phạm trù nhân đạo. Hai mặt cảm hứng lớn trong cảm quan nghệ thuật của tác giả là nhiệt tình ca ngợi và nhiệt tình phê phán. Tinh thần nhân đạo, nhân văn, nhân bản gắn liền với nhau.

Từ đó ta có thể khẳng địng tinh thần nhân đạo thắm đượm trong từng trang viết của các nhà văn đầy tài năng và tâm huyết. Tinh thần nhân đạo được thế hiện ở rất nhiều khía cạnh khác nhau với phong cách riêng của từng tác giả nhưng mục đích cuối cùng vẫn là vì và cho con người, ở Thạch Lam, yếu tố lãng mạn và hiện thực kết hợp hài hòa và nhuần nhị vì vậy mà truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa như một bài thơ trữ tình xinh xắn. Khác với Thạch Lam, tác phẩm Lão Hạc cũng như một số tác phẩm khác của Nam Cao đậm đà tính hiện thực. Và cũng góp phần vào mảng đề tài to lớn này, Nguyên Hồng thể hiện qua từng trang hồi kỳ xúc động về chính tuổi thơ cay đắng của mình. Dù là hiện thực hay lãng mạn song tất cả đều hướng về con người, ca ngợi và bênh vực, đòi quyền sống cho họ.

Trước hết, tinh thần nhân đạo của tác giả bộc lộ thông qua những lời ca ngợi, nâng niu những phẩm chất đáng quý của con người. Đó là tình cảm đẹp đẽ truyền thống của con người Việt Nam, tình cha con, mẹ con, anh em, láng giềng. Dù sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát và xấu xa đó, họ vẫn giữ được bản chất của mình.

Ai cũng có một người mẹ và trên đời này có ai yêu thương con hơn mẹ. Tình mẹ là nỗi khao khát của con trẻ, đấy chính là mạch cảm xúc chân thành của nhà văn khi hướng ngòi bút của mình vào con người.

Cũng là một đứa con nhưng khốn khổ thay, bé Hồng trong chương hồi ký Trong lòng mẹ lại là kết quả của một cuộc hôn nhân không tình yêu để rồi phải xa mẹ, sống trong sự ghẻ lạnh của gia đình. Hồng sống trong nhớ nhung, khao khát thì mẹ Hồng, người đàn bà bất hạnh đó cũng luôn canh cánh lòng hình bóng của hai đứa con thân yêu sớm thiếu thốn tình cảm của người mẹ. Giữa những tai tiếng chê cười của họ hàng thì mẹ Hồng là người vợ không thủy chung, chưa đoạn tang chồng mà chửa đẻ với người khác Trong xã hội đương thời, đó là trọng tội mà “cạo đầu bôi vôi” là một cực hình đau đớn nhất. Nhưng có ai hiểu được nỗi lòng người đàn bà đó, tiếng gọi của tình yêu và trái tim chưa một lần được yêu và luôn thôi thúc khát khao một tình yêu đích thực. Từ giã con song bà luôn nghỉ tới con trong thương nhớ, day dứt khôn nguôi. Và có ở trong địa VỊ của bà ta mới cảm nhận hết tình yêu thương con của bà nó sâu sắc và thấm thìa tới tận trái tim của người đọc, để cứ một lần giở lại trang truyện là một lần ta thổn thức yêu thương, chua xót.

Không những tình cảm mẹ con sâu nặng mà tình cảm cha con cũng được các tác giả ca ngợi và thể hiện sâu đậm trong tác phẩm của mình.

Hình ảnh lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một điển hình tiêu biểu. Mặc dù đã sớm mất đi người vợ hiền thân yêu nhất, nhưng lão Hạc không đi bước nữa vì sợ con lão phải khổ, sợ anh phái sống trong cảnh “mẹ ghẻ con chồng”. Có thế nói trong thâm tâm lão, hình ảnh anh con trai, đứa con độc nhất là nguồn vui, là lẽ sống mà lão dành cho nó cả tình cảm của mình. Lão Hạc đau đớn và day dứt khi không có tiền cưới vợ cho con, còn nỗi khổ nào hơn cha nhìn con đau khổ tuyệt vọng mà cũng chẳng giúp được gì ngoài những lời động viên nhẹ nhàng như nhũng khúc tâm can của người bố già nua đau khổ. Tấm lòng người cha của lão Hạc được khắc sâu và thể hiện cảm động nhất qua đoạn truyện tả cái chết của lão. Lão chết là vì con và cho con. Thật đáng thương bao nhiêu trước lời nói của lão: tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Lão đã chết, để lại cho con tất cả tài sản và cao quý hơn vẫn là tấm lòng người cha không lúc nào không nghĩ tới con.

Bên cạnh việc ca ngợi tình cảm mẹ con, cha con, các nhà văn cũng rất am hiểu và xúc động trước tình hiếu thảo của những con người dù là con rất bé. Nghĩ về trẻ thơ với tấm lòng con người, hay là nghĩ về chính cuộc đời thơ trẻ của mình mà Nguyên Hồng đã khắc họa rất thành công tình cảm đối với mẹ của bé Hồng trong chương Trong lòng mẹ. sống giữa những lời chê bai, khích bác của bà cô nhưng bé Hồng vẫn giữ trọn trong tim mình hình bóng mẹ kính yêu, mặc dù cho mọi người gièm pha chê trách. Tấm lòng của người con khi nhắc tới mẹ là nỗi đau, là vết thương lòng để cười dài trong tiếng khóc. Cười mà lại ra nước mắt ư? Hay đó chỉ là tiếng cười đau đớn đập vào mặt bà cô vô lương tâm, đập vào những cổ tục đã làm cho mẹ Hồng khổ. Còn giọt nước mắt, những giọt máu đỏ tươi trào ra từ trái tim non nớt sớm bị tổn thương là nỗi đau thương cho cuộc đời mẹ. Lúc ấy trái tim bé Hồng như thốt lên, gào lên tuyệt vọng: Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi. Lòng yêu thương như giúp cho bé Hồng có một sức mạnh vô biên, hay sức mạnh đó là sức mạnh của tình con trẻ.

Ngoài những tình cảm gia đình đó, còn những mối quan hệ xã hội mà tác giả cũng hết lời ca tụng, nâng niu.
Mặc dù mới chỉ là cậu bé Sơn trong Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam đã sớm có tình thương ấm áp thông qua việc làm rất có ý nghĩa: cho Hiên cái áo bông cũ. Đó là hành động rất bình thường, một tình thương bộc phát của trẻ thơ không suy tính mà có chăng chỉ là sự mách bảo của trái tim, thấy bạn không có áo thì cho và trong lòng cảm thấy ấm áp VUI VUI. Sơn VUI, VUI vì mình vừa làm một việc tốt và thấy cái Hiên mặc áo bông thì Sơn thấy mình cũng ấm hơn. Đó là hơi ấm của tình người sưởi ấm cho cả một không gian lạnh se cắt khi gió lạnh đầu mùa đông tràn về mà Thạch Lam đã phát hiện, miêu tả sinh động trong truyện của mình. Đó là tình cảm láng giềng khi tối lửa tắt đèn có nhau của lão Hạc đối với ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao. Trong lúc xã hội rối ren mà mối quan hệ giữa con người với con người là mối quan hệ giữa người và chó sói thì lão Hạc vần tin một niềm tin bất diệt vào vào ông giáo. Chuyện gì lão cũng kể với ông giáo, cũng hỏi ông giáo và ông đã thực sự là chỗ dựa tin tưởng nhất trong cuộc đời lão.

Ngợi ca và trân trọng, kích phục và thương yêu, các tác giả như Nam Cao, Nguyên Hồng, Thạch Lam đã ghi lại hết sức tinh tế phẩm chất tốt đẹp của người dân, từ một cậu bé Sơn vô tư đến một bé Hồng bất hạnh và cao hơn hết là một hình ảnh của một lão Hạc thật thà, chân chất, yêu thương.

Cùng với việc ngợi ca phẩm chất của người dân và trẻ thơ, các tác giả còn tập trung hướng ngòi bút của mình lên án xã hội đương thời, đấu tranh đòi quyền sống cho con người. Càng thương cảm cho cuộc đời của mỗi nhân vật, các tác giả càng căm phần những thế lực làm khổ cuộc đời họ.

Qua hai tác phẩm Gió lạnh đầu mùa và Lão Hạc, nhà văn Nam Cao và Thạch Lam đã gián tiếp lên xã hội với bọn quan lại sâu dân mọt nước đương thời.

Vì sao cả cuộc đời đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào mà mẹ Hiên vẫn khổ, mà lão Hạc vẫn phái chết. Đó là câu hỏi bức thiết, là lời tố cáo đanh thép và mạnh mẽ quất thẳng vào bộ mặt của xã hội đương thời. Họi làm mà không có ăn vì đâu ư? Vì bọn quan lại tham lam bòn rút, vì thuế má ngặt nghèo của lão Hạc là trường hợp tự bức tử. Nếu lão còn sống thì sống mòn, chết mòn, chết từ từ, chết dần dần trong bàn tay gớm ghiếc của xã hội đã tước đi quyền sống của lão và của bao nhiêu người khác. Hai cái gông phong kiến và thực dân đã đánh gục biết bao nhiêu người như lão Hạc, như mẹ cái Hiên, chết đói, chết rét, cái chết mà lẽ ra phải dành cho bọn quan lại và địa chủ sâu dân mọt nước. Khổ vì nghèo, vì đói, vì quan đã là nhục nhã lắm rồi nhưng chưa hết, sống dưới xã hội mà thực dân nửa phong kiến đương thời, người dân, mà đặc biệt là lão Hạc, mẹ Hồng còn khổ hơn vì hủ tục phong kiến. Nam Cao và Nguyên Hồng đã tập trung phản ánh nạn nhân của nó, có thể nói mỗi số phận như cô gái người yêu anh con trai của lão Hạc rồi mẹ bé Hồng là lời kêu cứu thất thanh văng vẳng trong trái tim các tác giả. Cũng chỉ vì hú tục trong hôn nhân, cưới xin mà anh con trai lão Hạc không lấy được người mình yêu. Nhà gái thách cưới cao quá, gia đình anh làm sao lo đủ, rồi cuối cùng mỗi người một ngả. Cô gái người yêu anh con trai lão Hạc lấy một người chồng giàu sang mà mình không yêu rồi số phận đưa đẩy ra sao? Đó là số phận, là tương lai mù mịt của cô hay chính là mẹ bé Hồng sau này trong tác phẩm Những ngày thơ ấu. Cuộc hôn nhân không tình yêu để rồi tất cả cùng đau khổ, bố bé Hồng chết, mẹ bé Hồng vì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nên đành chôn vùi tuổi thanh xuân mà sau này “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” phải khiến bà phải sống tha hương, cầu thực, bèo dạt mây trôi, tương lai rồi cũng chỉ là một vũng bùn đen tối. Nguyên Hồng đã thể hiện tình cảm gay gắt của mình thông qua hình ảnh bé Hồng muốn tiêu diệt những hủ tục đã đày đọa mẹ mình.

Nói tóm lại văn xuôi giai đoạn 1930-1945 mà đặc biệt là ba tác phẩm Gió lạnh đầu mùa, Những ngày thơ ấu, Lão Hạc cho ta thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của các nhà văn. Dù là ở các trào lưu khác nhau, hiện thực hay lãng mạn, họ đều thể hiện tinh thần nhân đạo bao la với mọi kiếp người: là em bé khổ đau, là cụ già bất hạnh, là tình người ấm áp trong cơn gió lạnh đầu mùa. Nhưng tinh thần nhân đạo của ba tác phẩm vẫn chưa đạt đến chủ nghĩa nhân đạo cách mạng. Bởi các nhà văn chỉ thấy các nhân vật khổ mà thương xót chứ chưa tìm ra được con đường giải phóng họ. vì vậy mà kết thúc câu chuyện dù lãng mạn hay hiện thực vẫn có những chỗ bế tắc, Hồng vẫn khổ, lão Hạc phải chết v.v... song đó là tiếng kêu đòi quyền sống cho con người mà ta rất kính trọng nâng niu ở các nhà văn. Hạn chế cũng là hạn chế trong tư tưởng tác giả và lịch sử một thời đại.

Cảm hứng nhân đạo đã, đang và sẽ là cảm hứng cho tất cả các trào lưu văn học nghệ thuật vị nhân sinh, đó là tiếng lòng của một nhà thơ sau này và mãi mãi về sau:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu nhau sống để yêu nhau.
Tố Hữu