K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 1

Khổ thơ thứ ba trong bài "Mùa thu mới" của Tố Hữu thể hiện tình cảm yêu mến và trân trọng của tác giả đối với những con người lao động trong xã hội mới. Hình ảnh "Hai cánh tay như hai cánh bay lên" biểu trưng cho sự hăng say, nhiệt huyết trong công việc, đồng thời thể hiện khát vọng vươn lên xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu thơ "Ngực dám đón những phong ba dữ dội" ca ngợi tinh thần dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thử thách của con người trong công cuộc kiến thiết đất nước. Cuối cùng, "Chân đạp bùn không sợ các loài sên" nhấn mạnh sự kiên trì, bền bỉ và lòng quyết tâm vượt qua mọi trở ngại để đạt được mục tiêu. Tổng thể, khổ thơ này tôn vinh phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:        Việt Nam quê hương ta       Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn       Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều       Quê hương biết mấy thân yêu Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau       Mặt người vất vả in sâu Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn       Đất nghèo nuôi...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:

       Việt Nam quê hương ta

      Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
      Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
      Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
      Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn

      Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
      Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
      Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
      Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung

      Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
      Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ

      Nước bâng khuâng những chuyến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
      Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường

      Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
      Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bữa cơm rau muống quả cà giòn tan...

                             (Trích trường ca Bài thơ Hắc Hải, 1958, Nguyễn Đình Thi)

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ. 

Câu 2. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của bài thơ. 

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ trong khổ thơ sau: 

      Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
      Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bữa cơm rau muống quả cà giòn tan...

Câu 4. Con người Việt Nam hiện lên trong bài thơ với những phẩm chất nào?

Câu 5. Phát biểu đề tài, chủ đề của bài thơ. 

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:       (Lược một đoạn: Thám tử Sherlock Holmes nhận được một bức thư xin trợ giúp trong một vụ án kì lạ từ hai viên thanh tra của Scotland Yard – Gregson và Lestrade. Trong một căn nhà bỏ hoang tại khu Lauriston Garden bỗng xuất hiện thi thể của một người đàn ông. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai rộng, tóc quăn và đen, râu rậm...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

     (Lược một đoạn: Thám tử Sherlock Holmes nhận được một bức thư xin trợ giúp trong một vụ án kì lạ từ hai viên thanh tra của Scotland Yard – Gregson và Lestrade. Trong một căn nhà bỏ hoang tại khu Lauriston Garden bỗng xuất hiện thi thể của một người đàn ông. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai rộng, tóc quăn và đen, râu rậm xén ngắn. Trên thi thể không hề có bất kì một thương tích nào nhưng trong gian phòng lại có nhiều vết máu. Tại hiện trường vụ án xuất hiện nhiều điểm đáng ngờ, gần thi thể xuất hiện một chiếc nhẫn cưới của một người phụ nữ, trên một mé tường tối tăm có chữ “Rache” được viết bằng máu. Còn bên ngoài căn nhà có dấu vết để lại của một chiếc xe ngựa, dấu chân của một con ngựa và vết giày của hai người đàn ông. Những manh mối này khiến cho họ phải đau đầu vì không xác định được nghi phạm và động cơ gây án. Thông qua điều tra sơ bộ, các viên thanh tra đã xác định được danh tính của nạn nhân là Drebber. Ngay khi vụ án dần được hé lộ, Lestrade phát hiện một vụ án giết người khác cũng xuất hiện chữ “Rache” được viết bằng máu dưới thi thể của nạn nhân. Nạn nhân lần này là Staggerson – thư kí của Drebber. Cuộc điều tra càng thêm khó khăn và bế tắc vì các viên thanh tra và Holmes không thể xác định được mục đích thật sự của hung thủ là gì. Sau đó, Holmes phát hiện ra manh mối về viên thuốc được tẩm độc trong căn phòng của nạn nhân thứ hai. Bằng sự mưu trí, ông đã dụ hung thủ đến căn hộ của mình và bắt hắn tại đây, trước sự chứng kiến, giúp sức của Gregson, Lestrade và người bạn cùng phòng Waston. Nhờ đó, vụ án được hé mở. Dưới đây là sự diễn giải lại quá trình suy luận của Holmes qua cuộc trò chuyện với bác sĩ Waston.

      – Để giải quyết một vấn đề như vậy, cái quan trọng là lập luận ngược chiều. […] Đây là trường hợp người ta nói cho anh biết cái kết cục và tự anh phải tìm ra tất cả những sự việc đã dẫn đến cái kết cục ấy. Tôi xin kể lại với anh các giai đoạn khác nhau trong cách lập luận của tôi. Như anh đã biết, tôi đã đi bộ khi gần đến hiện trường, đầu óc hoàn toàn không có một dự kiến hay thiên kiến gì. Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rõ những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đã đậu ở đấy đêm trước. Tôi biết đây không phải là một chiếc xe nhà mà là xe chở thuê, căn cứ ở khoảng cách hẹp giữa hai bánh xe. Chiếc xe chở thuê thông thường ở London nhỏ hẹp hơn nhiều so với xe nhà. Sau đó tôi đã chầm chậm đi theo lối qua vườn mà nền đất là một loại đất sét, rất dễ nhận thấy vết chân, đối với con mắt nhà nghề của tôi thì mỗi dấu vết mang một ý nghĩa… Tôi đã thấy những vết chân nặng nề của các viên cảnh sát, nhưng tôi cũng thấy những vết chân của hai người đã đi qua khu vườn này trước đám cảnh sát kia: ở một đôi chỗ vết chân của hai người bị những vết chân cảnh sát đè lên, xóa đi. Qua đó, nó cho tôi biết đã có hai người lạ mặt đến đây hồi đêm, một người rất cao lớn – căn cứ theo chiều dài của bước chân và người kia ăn mặc sang trọng, căn cứ theo vết giầy nhỏ nhắn, thanh mảnh. Vào trong nhà, người đi giày sang trọng nằm đó. Vậy thì, người cao lớn là kẻ đã gây ra án mạng. Không có thương tích trên người nạn nhân, nhưng qua những nét kinh hoàng lưu lại trên mặt, tôi đoán hẳn nạn nhân đã được báo về số phận mình trước khi chết. Những người chết vì bệnh tim hoặc vì một nguyên nhân tự nhiên nào khác không bao giờ nét mặt lại nhăn nhúm đến như vậy. Ngửi môi nạn nhân, tôi thấy có mùi chua chua, tôi kết luận nạn nhân đã bị cưỡng bức uống thuốc độc. Chính vẻ căm thù và khiếp sợ biểu lộ trên mặt đã dẫn tôi đến suy đoán ấy. Tôi đi đến kết luận này bằng phương pháp loại trừ vì không có một giả thiết nào khác có thể giải thích được tất cả những chi tiết kia. Cưỡng bức nạn nhân uống thuốc độc hoàn toàn không phải là điều mới trong lịch sử hình sự. Tiếp theo đó là câu hỏi lớn: tại sao có vụ ám sát này? Tiền bạc không phải là động cơ. Vụ này dính đến chính trị hay đến phụ nữ? Trước hết tôi ngả về giả thiết thứ hai. Những kẻ ám sát chính trị một khi làm xong nhiệm vụ thì vội bỏ đi ngay. Ở đây ngược lại, thủ phạm đã để dấu vết trong khắp gian phòng, chứng tỏ y đã lưu lại đây khá lâu. Vậy đây là một vụ thanh toán do hận thù cá nhân chứ không phải là một vụ án chính trị. Khi phát hiện ra những chữ viết trên tường, tôi càng tin chắc sự suy đoán của tôi là đúng, đây quá rõ là một mưu mẹo nhằm đánh lạc hướng. Đến khi tìm thấy chiếc nhẫn thì tôi coi việc xác định giả thiết là đã xong. Rõ ràng thủ phạm đã dùng chiếc nhẫn này để gợi lại với nạn nhân một người phụ nữ đã chết hoặc vắng mặt. Chính là khi đó tôi hỏi Gregson xem trong bức điện gửi đi Cleverland, ông ta có hỏi một chi tiết gì đặc biệt về quá khứ của Drebber không. Chắc anh còn nhớ Gregson đã trả lời tôi là không. Sau đó, tôi xem xét tỉ mỉ gian phòng. Việc này giúp tôi thấy rõ tầm vóc, loại thuốc xì gà và móng tay dài của thủ phạm. Vì không có dấu vết vật lộn nào nên tôi kết luận chỗ máu giây ra trên sàn nhà hẳn là máu mũi của thủ phạm lúc bị quá khích. Tôi thấy những vết máu này trùng hợp với những vết chân của thủ phạm. Không mấy ai, trừ phi là người thuộc tạng rất thừa máu, lại chỉ vì xúc cảm mà chảy máu mũi. Vì vậy, tôi dám nghĩ rằng thủ phạm chắc là một người lực lưỡng, mặt đỏ vì xung huyết. Thực tế đã chứng minh là tôi đoán đúng. Ở ngôi nhà đó ra về, tôi đã vội vàng làm cái việc mà Gregson bỏ qua. Tôi điện cho Sở cảnh sát thành phố Cleverland, hỏi về những tình huống xung quanh cuộc hôn nhân của Drebber. Bức điện trả lời cho biết Drebber đã nhờ cảnh sát thành phố che chở cho mình khỏi bị một kẻ tên là Hope ám hại. Kẻ này là tình địch của Drebber trong một chuyện yêu đương cũ và hiện nay kẻ này đang có mặt tại châu Âu. Đến lúc ấy, tôi biết là đã nắm trong tay tất cả các đầu mối, chỉ còn có việc tóm cổ thủ phạm nữa thôi. Tôi đã tin chắc rằng người ấy đi cùng với Drebber vào ngôi nhà và người đánh xe chỉ là một. Vết chân ngựa day đi day lại trên đường cho thấy không có người giữ cương nó. Vậy thì người đánh xe lúc ấy ở đâu nếu không phải là ở trong nhà? Bởi không có ai dám gây ra một án mạng ngay trước mắt một người thứ ba để về sau người đó sẽ tố cáo mình. Cuối cùng, giả sử thủ phạm muốn theo dõi nạn nhân của mình qua các phố ở London thì liệu y còn tìm được cách nào tốt hơn là đóng vai người đánh xe ngựa không. Tất cả những khía cạnh ấy buộc tôi phải tìm Hope trong số những người đánh xe ngựa ở Luân Đôn. Nếu y làm nghề đánh xe thì không có lý do gì y lại không tiếp tục nghề ấy. Trái lại, theo cách nhìn của y, mọi sự thay đổi đột ngột có thể làm cho người ta chú ý đến y. Chắc y cũng tiếp tục nghề cũ, ít nhất trong một thời gian. Cũng không có lý do gì để giả thiết rằng y sống dưới một cái tên giả. Y cần gì phải đổi tên ở một nước không có ai quen biết? Tôi đã nhờ đến mấy chú bé lang thang, phái chúng đến hỏi tất cả các chủ xe London cho đến khi tìm được người mà tôi tìm. Chúng đã tìm được. Vụ giết Stanggerson là một việc hoàn toàn bất ngờ, nhưng dù sao cũng không thể ngăn ngừa được. Anh thấy không, tất cả những điều đó là một chuỗi sự việc logic móc nối nhau liên tục, không một kẽ hở, không một chỗ nào gián đoạn.

     – Thật là tuyệt vời! – Watson kêu lên – Công lao của anh đáng được mọi người biết đến. Phải đăng một bài báo về vụ này. Nếu anh không viết thì tôi sẽ viết thay anh.

(Sherlock Holmes toàn tập, Arthur Conan Doyle, NXB Văn học)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản. 

Câu 3. Câu ghép dưới đây là câu ghép đẳng lập hay câu ghép chính phụ? Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép đó.

Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rõ những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đã đậu ở đấy đêm trước.

Câu 4. Vì sao vụ án này lại được coi là một vụ án nan giải, hóc búa?

Câu 5. Nhận xét về cách lập luận của nhân vật Sherlock Holmes trong văn bản. 

0
6 tháng 1

Cầu cứa

 

6 tháng 1

Tác phẩm Nhà mẹ Lê là câu chuyện về cuộc đời những người dân ngụ cư mà nhân vật chính là mẹ Lê cùng mười một đứa con.

Họ sống nghèo khổ trong một căn nhà chật hẹp và tồi tàn. Bà mẹ phải làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi các con. Những ngày cực nhọc nhất của những người nông dân lại là những ngày vui sướng của bà mẹ nghèo khổ ấy vì lúc đó mới có người mướn làm. Những buổi tối cả nhà mẹ Lê xúm xít quanh nồi cơm bốc khói là những ngày hạnh phúc nhất. Nhưng những ngày như thế không nhiều. Mùa đông đến, ngoài đồng chỉ còn trơ cuống rạ, ao hồ không còn tôm tép để bắt, nguồn thức ăn của gia đình mẹ Lê không còn. Nhà mẹ Lê vốn nghèo khổ giờ càng túng quẫn hơn. Đàn con đói rét, không cầm lòng nổi trước cảnh tượng đó mẹ Lê một lần nữa tìm đến nhà ông Bá giàu có trong làng để vay gạo. Gạo vay không được, mẹ Lê còn bị ông Bá thả chó ra cắn. Được một người quen đưa về với vết thương máu chảy ròng ròng, mẹ Lê lên cơn sốt nặng. Trong lúc mê man, người mẹ tội nghiệp ấy nhớ lại quãng đời bất hạnh và khốn khổ của mình. Kết thúc câu chuyện là cảnh mẹ Lê từ giã cõi đời để lại mười một đứa con bơ vơ, không nơi nương tựa, không biết đi đâu về đâu.

Cái khổ của nhà mẹ Lê là cái khổ của cảnh đời đông con, túng quẫn. Nếu ít con hơn, có lẽ mẹ Lê sẽ có thể được bớt lo, bớt khổ phần nào. Cảnh gia đình đông con của nhà mẹ Lê không phải là hiểm trong xã hội ấy. Đông con là một áp lực, là một gánh nặng đè lên vai bất kì người phụ nữ nào, gia đình nào trong xã hội ấy.

Thạch Lam dường như đã hóa thân vào nhân vật để cảm nhận những nỗi đắng cay trong cuộc đời của họ. Ta thấy cái nhìn độ lượng, thương cảm của nhà văn khi miêu tả căn nhà tồi tàn của mẹ Lê "chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát", mùa rét phải rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm và tác giả so sánh cảnh tượng đó "trông như một ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc". Để đặc tả sự nghèo khổ của nhà mẹ Lê, tác giả cho ta thấy "cách kiếm ăn' khổ cực và bấp bênh của bà mẹ này:" Từ buổi sáng tinh sương mùa nực cũng như mùa rét bác ta phải trở dậy đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng ". Ấy vậy mà đó là những ngày sung sướng nhất vì khi ấy còn có người mướn bác làm việc. Những con người sống với nghề nghiệp bấp bênh ấy trở nên tội nghiệp hơn khi những ngày mùa qua đi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ. Những khó khăn ấy không chỉ đến với riêng mẹ Lê mà với tất cả những người dân trong xóm ngụ cư nghèo khổ ấy. Đặc tả một khung cảnh đói khổ và buồn bã, tác phẩm dường như báo hiệu cho chúng ta thảm cảnh Ất Dậu.

Đói rét, nghèo khổ nhưng với Thạch Lam những con người trong" nhà mẹ Lê "trước bờ vực thẳm của cuộc đời không bị tha hóa, biến dạng. Giữa cái giá lạnh của cuộc sống họ" lặng lẽ, âm thầm chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau ". Đây là một đặc điểm của các nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam. Nhà văn luôn" chắt chiu cái đẹp "ấy tạo ra một thế giới nhân vật mà ở đó luôn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng và hi sinh (Tâm trong" cô hàng xén ", Liên trong" một đời người "). Những con người ấy không dám thổ lộ nỗi khổ của mình phải chăng sợ làm tổn thương người khác? Họ âm thầm đồng cảm với nhau, lặng lẽ chia sẻ cùng nhau mà không có một phản ứng mạnh mẽ, một phản kháng quyết liệt nào về hiện thực tối tăm bao quanh mình.

Nhân vật trong" nhà mẹ Lê "sống trọn vẹn với niềm vui và cả những nỗi buồn. Những con người ấy thiếu thốn về vật chất nhưng không thiếu thốn về tinh thần. Họ không cô đơn trong cuộc sống cũng không cô độc trong cuộc đời bởi họ luôn mang trong tâm hồn mình tình người ấm áp. Tình người đẹp đẽ ấy phải chăng xuất phát từ tấm lòng bao la của nhà văn dành cho những kiếp người nhỏ bé? Thạch Lam đã đưa họ đến gần nhau để những con người ấy không chỉ thấu hiểu mà còn chia sẻ và giúp đỡ nhau. Mẹ Lê khi bị chó nhà giàu cắn được đưa về nhà trong cơn đau vẫn xúc động nói" may gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê về được đến nhà "và khi người mẹ ấy chết đi chính những người nghèo khổ ấy đã" mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ đầu làng ". Họ quay trở về ái ngại và xót xa cho những đứa con tội nghiệp của người mẹ xấu số. Tác phẩm vì thế được bao trùm bởi tình yêu thương. Đó không chỉ là tình thương của những con người cùng cảnh ngộ trong truyện mà còn là tình thương của độc giả dành cho nhân vật và của chính nhà văn với" đứa con tinh thần ".

" Nhà mẹ Lê' vừa mang yếu tố hiện thực vừa được khoác lên mình màu sắc lãng mạn . Thạch Lam không chỉ cảm thông mà còn trân trọng nhân vật của mình. Sự trân trọng ấy được biểu hiện từ cách gọi tên các nhân vật. Nhà văn không gọi nhân vật của mình là "thị", "y", "hắn" như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao.. mà gọi một cách trân trọng, trìu mến "mẹ Lê", "mẹ Đối", "mẹ Hiền". Xuyên suốt tác phẩm mẹ Lê được gọi là "bác". Nó giống như đây là một câu chuyện kể về một người thân quen cùng một hoàn cảnh, cùng một tầng lớp trong xã hội.

Sự kiện đối thơ lần 3. Cô Thương Hoài thân ái chào toàn thể các thành viên của Olm. Mùa xuân đang đến rất gần bên thềm cửa, trái tim ta một nửa cũng rộn ràng. Hòa chung không khí đón xuân sang. Diễn đàn Olm tổ chức sự kiện đối thơ lần 3, nhằm giúp các em thêm yêu nét đẹp tâm hồn, nghệ thuật, cảm xúc trái tim để từ đó sống tốt hơn, ý nghĩa hơn, nhân văn hơn. Khi mỗi tâm hồn là...
Đọc tiếp

Sự kiện đối thơ lần 3. Cô Thương Hoài thân ái chào toàn thể các thành viên của Olm. Mùa xuân đang đến rất gần bên thềm cửa, trái tim ta một nửa cũng rộn ràng. Hòa chung không khí đón xuân sang. Diễn đàn Olm tổ chức sự kiện đối thơ lần 3, nhằm giúp các em thêm yêu nét đẹp tâm hồn, nghệ thuật, cảm xúc trái tim để từ đó sống tốt hơn, ý nghĩa hơn, nhân văn hơn. Khi mỗi tâm hồn là một bông hoa đẹp thì lòng người vĩnh viễn thắm hương xuân. Các em hãy trổ tài họa bài thơ của cô dưới đây để có cơ hội nhận giải thưởng hấp dẫn và bí mật nhé.

Ước Nguyện

Tuyết nguyệt sầu tương khắc khoải đông,

Phong vân hỉ nộ tái tê lòng.

Thiên trường địa cửu toan nơi rộng,

Tạo hóa còn đương thắt lại tròng.

Thánh thiện từ tâm tim mở rộng,

Sân si chẳng bén gót lên phòng.

Màng chi lụa gấm hay danh vọng,

Nguyện mãi tri âm rảo bước đồng!

(Tác giả Thương Hoài olm sđt 0385 168 0 17)

22
3 tháng 1

Xuân hạ thu đông cảnh sắc tươi,

Mây trời biến đổi nhẹ tênh hơi.

Đường dài rộng mở tâm vô ngại,

Tạo hóa ban cho phúc hậu đời.

Tâm thiện sáng trong soi khắp chốn,

Phiền não chẳng bén gót vào nơi.

Của giàu danh lợi nhẹ như mây,

Nguyện mãi tình thân bước cạnh tôi!

Gió xuân về nhẹ vỗ mây trôi,

Vui tươi tâm trí rạng ngời vơi.

Tình yêu mênh mông như biển rộng,

Đời này đường tơ sáng ngời nơi.

Giữ lòng yên tĩnh, tâm không rối,

Hữu minh chẳng sợ ngã bao giờ.

Đâu cần bạc vàng hay danh lợi,

Nguyện sống tri âm đến cuối bờ.