K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1. (2 điểm) Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi”. NHANH DC TICKTHẦY GIÁO DẠY VẼ CỦA TÔI         Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…[…] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm) Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi”. NHANH DC TICK
THẦY GIÁO DẠY VẼ CỦA TÔI

         Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…

[…] Thầy ăn mặc theo kiểu xưa: bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiếc ca-vát vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thầy cáu giận, gắt gỏng với chúng tôi. Cũng chẳng bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kể cả những hôm thầy yếu mệt, sốt cao, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong số những hoạ sĩ học khoá đầu tiên của Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những hoạ sĩ tên tuổi, có người nổi tiếng cả ở nước ngoài, riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do”: cảnh chùa hoặc cảnh lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy. Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển sách của các bậc danh hoạ. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm… Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi nhưng chẳng mấy ai biết tên hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

         (Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr.178)

3

Câu chuyện “Thầy giáo dạy vẽ của tôi” của tác giả xuân Quỳnh đưa người đọc đến một dòng cảm xúc nghẹn ngào, sâu lắng về đạo làm trò, nổi bật hơn cả là tấm lòng thương yêu học trò, tận tâm với công việc của nhân vật thầy Bản qua hồi tưởng của cậu học trò Châu - họa sĩ - kỹ sư nhà máy cơ khí.


Hình ảnh về người thầy luôn đọng mãi trong tâm trí Châu với những kỷ niệm không thể nào quên. Thầy Bản là một người đầy có bề dày kinh nghiệm của nghề giáo. Khi Châu học lớp năm, thầy đã có mái tóc bạc phơ. Thầy ăn mặc theo phong cách xưa cũ với bộ com-le đen sờn màu, thầy đội mũ nồi, đeo dày và chiếc cặp da nâu cũ kĩ, râu mép của thầy đã lấm tấm bạc. Chỉ bằng vài chi tiết, ta có thể thấy thầy Bản đã bước vào tuổi xế chiều, thầy cống hiến cả cuộc đời mình để truyền lại cho thế hệ mầm non một kho tàng hội họa trù phú. Thầy yêu thương tất cả học sinh của mình, thầy ân cần, hiền hậu, chẳng bao giờ gắt gỏng hay cáu giận gì. Dù tuổi tác không còn trẻ, sức khỏe đã giảm sút đi nhiều nhưng thầy luôn tận tâm với công việc. Mặc cho có ốm yếu, sốt cao nhưng thầy chưa bao giờ phụ lòng học sinh, thầy luôn có mặt đủ, không bỏ một tiết lên lớp nào. Hiếm có thể thấy một người thầy nào tâm huyết với học trò, với nghề như vậy. 


Có lẽ bởi vì thầy yêu cái đẹp, tâm hồn say mê hội họa đã dẫn dắt thầy gắn bó với nghề này, gắn bó với những cô cậu học trò đáng yêu. Thầy muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng của mình vào những mầm non tươi đẹp của đất nước. Thầy dạy học sinh chu đáo, tỉ mẩn từng chút một. “Thầy dạy chúng tôi kẻ chữ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực,... Thầy ân cần, tỉ mỉ chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí: cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ.” Thầy tận tâm hướng dẫn học sinh từng li từng tí, thầy mong muốn từng nét vẽ là từng ước mơ được chắp cánh bay xa.


Hoài bão về nghệ thuật vẫn luôn rực cháy trong trái tim của thầy. Đó là “Những câu chuyện về hội họa, về màu sắc và đường nét, về thế giới thứ hai rực rỡ, diệu kỳ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới khu vườn tốt lành và đẹp đẽ”. Qua lời kể của Châu về câu chuyện của thầy, có thể thấy hội họa đã trở thành nguồn sống, nhịp thở, hòa cùng dòng máu chảy trôi trong con người thầy. Nguồn sống đó còn thể hiện ở những bức học tỉ mỉ, nhiều màu sắc về vạn vật xung quanh của thầy trên căn gác mái. Khát khao cháy bỏng là thế nhưng trái tim của thầy cũng yếu đuối vô cùng. Thầy bồi hồi, xúc động khi báo tin bức tranh của mình được trưng bày ở triển mỹ thuật thành phố. Thầy cứ loay hoay, đi đi lại lại ngắm nhìn bức tranh của mình mãi không thôi. Ta càng thấy đồng cảm và thương thầy hơn khi thầy bối rối vì cảm động thông báo với học trò rằng bức tranh của thầy đã được một số người thích và ghi nhận. Ấy thế mà thầy khiêm tốn, ân hận nói rằng: “Bức tranh ấy tôi chưa được vừa ý...Nếu vẽ lại tôi sẽ sửa chữa nhiều hơn.” Thầy đâu biết rằng lời bình trong cuốn sổ cảm tưởng đó chính do những cô cậu học trò vì yêu mến thầy, thương cảm cho tài năng bị chôn vùi của thầy nên mới quyết định thực hiện hành động ý nghĩa đặc biệt.


Người thầy đáng kính đó nay đã đi xa nhưng để lại muôn vàng kính trọng cho thế hệ học sinh bấy giờ. Thầy làm cho những tâm hồn ngây thơ biết yêu hội họa. Thầy trở thành một tấm gương sáng chói về sự cần cù, chăm chỉ, cống hiến hết mình với công việc, một con người giàu tình yêu thương, tấm lòng trong sạch, chân chính giúp cho thế hệ mai sau noi theo. Thầy không nổi tiếng và thành công trong sự nghiệp nhưng trong mắt học trò ,thầy luôn là hình mẫu lý tưởng của sự hiền hòa và sự quan tâm đến học sinh 

17 tháng 5

cái này giống phân tích tp hơn là phân tích nghệ thuật

21 tháng 5

v

21 tháng 5

Trong bài thơ Áo cũ của Lưu Quang Vũ, hình ảnh chiếc áo cũ được khắc họa đầy xúc động và mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Chiếc áo không chỉ là vật dụng đơn giản mà còn là biểu tượng của ký ức, tình cảm thiêng liêng giữa mẹ và con. Chiếc áo “đứt sờn, màu bạc hai vai” gợi lên hình ảnh thời gian trôi qua, sự hao mòn của vật chất cũng như những vất vả, hy sinh của mẹ trong suốt quá trình nuôi dưỡng con lớn. Hình ảnh mẹ vá áo bằng đôi tay đã mờ, mắt đã kém càng làm nổi bật tình yêu thương vô bờ bến và sự tần tảo của mẹ. Chiếc áo cũ gắn liền với những kỷ niệm, những tháng ngày con lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ, khiến con “càng yêu áo thêm”. Khi chiếc áo dài hơn, cũng là lúc con nhận ra mẹ đã già đi, như lời nhắc nhở về sự trôi qua của thời gian và tình mẫu tử bền chặt. Qua hình ảnh chiếc áo cũ, bài thơ gửi gắm thông điệp về lòng biết ơn, sự trân trọng những giá trị truyền thống và tình cảm gia đình sâu sắc, khiến người đọc cảm nhận được sự ấm áp và xúc động.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
5 tháng 5

Lễ hội truyền thống là những viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân tộc, nơi lưu giữ và tái hiện những giá trị tinh thần, phong tục tập quán tốt đẹp của cha ông. Tuy nhiên, đáng buồn thay, trong bối cảnh hội nhập và sự trỗi dậy của văn hóa cá nhân, một bộ phận không nhỏ bạn trẻ lại có những biểu hiện lệch chuẩn về trang phục và hành động khi tham gia vào các sự kiện thiêng liêng này. Vấn đề này không chỉ làm xói mòn bản sắc văn hóa mà còn gây ra những hình ảnh phản cảm, đi ngược lại ý nghĩa cao đẹp của lễ hội.

Một trong những biểu hiện dễ nhận thấy nhất là sự lựa chọn trang phục thiếu tôn trọng không gian văn hóa truyền thống. Thay vì những bộ áo dài duyên dáng, áo tứ thân nền nã hay những trang phục lịch sự, kín đáo, một số bạn trẻ lại diện những bộ cánh hở hang, cắt xẻ táo bạo, mang đậm phong cách cá nhân hoặc ảnh hưởng từ văn hóa ngoại lai. Sự đối lập này không chỉ tạo nên sự lạc lõng, kệch cỡm mà còn thể hiện sự thiếu hiểu biết, thậm chí là thái độ hời hợt, thiếu tôn trọng đối với những giá trị văn hóa lâu đời.

Bên cạnh trang phục, hành động của một số bạn trẻ tại lễ hội cũng đáng lo ngại. Thay vì thái độ trang nghiêm, thành kính khi tham gia các nghi lễ, chúng ta lại chứng kiến những hành vi thiếu ý thức như nói chuyện lớn tiếng, cười đùa quá khích, chen lấn xô đẩy, thậm chí là có những cử chỉ thô tục, phản cảm. Việc sử dụng điện thoại để quay phim, chụp ảnh một cách thiếu tế nhị, làm ảnh hưởng đến không gian linh thiêng của lễ hội cũng là một thực trạng đáng buồn. Những hành động này không chỉ làm mất đi vẻ đẹp trang trọng, thiêng liêng của lễ hội mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với các bậc tiền nhân và cộng đồng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể xuất phát từ nhiều phía. Sự du nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây cùng với sự phát triển của mạng xã hội đã tạo ra những trào lưu thời trang và lối sống mới, đôi khi đi ngược lại những giá trị truyền thống. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt trong giáo dục về văn hóa, lịch sử và ý thức cộng đồng cũng khiến một bộ phận bạn trẻ chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của các lễ hội truyền thống. Mặt khác, sự buông lỏng quản lý, thiếu những quy định cụ thể và chế tài xử lý đối với những hành vi phản cảm tại lễ hội cũng góp phần làm gia tăng tình trạng này.

Để khắc phục tình trạng trên, cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường, xã hội và chính bản thân mỗi bạn trẻ. Gia đình cần giáo dục con em về những giá trị văn hóa truyền thống, về cách ứng xử văn minh nơi công cộng. Nhà trường cần tăng cường các hoạt động giáo dục ngoại khóa, giúp học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử, ý nghĩa của các lễ hội. Các cơ quan quản lý văn hóa cần có những quy định cụ thể về trang phục và hành vi khi tham gia lễ hội, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, nhắc nhở. Quan trọng hơn hết, mỗi bạn trẻ cần nâng cao ý thức tự giác, thể hiện sự tôn trọng đối với di sản văn hóa của dân tộc bằng những hành động và trang phục phù hợp, góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của lễ hội truyền thống. Chỉ khi đó, những sự kiện văn hóa này mới thực sự trở thành nơi kết nối cộng đồng, giáo dục thế hệ trẻ và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam.

21 tháng 5

Dưới đây là bài văn phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương, khoảng 400 chữ, bạn có thể tham khảo:


Phân tích hình ảnh khói bếp trong bài thơ "Hoa loa kèn" của Vũ Quần Phương

Bài thơ Hoa loa kèn của Vũ Quần Phương đã khắc họa một cách rất tinh tế và sâu sắc hình ảnh khói bếp – một biểu tượng bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam. Khói bếp không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn chứa đựng biết bao ký ức, tình cảm và sự gắn bó với cuộc sống giản dị, mộc mạc của con người nơi đây.

Ngay từ những câu thơ đầu, làn khói bếp hiện lên như một tấm màn mờ ảo, hòa quyện với sương mờ và cây cối tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa thực vừa mơ. Khói bếp không chỉ phủ kín mái rạ, cây xoan, cây muỗm mà còn làm cho cả mái đình rêu xanh như đắm say trong không gian ấy. Hình ảnh này gợi lên sự yên bình, tĩnh lặng và ấm áp của một làng quê thân thương.

Khói bếp còn gắn liền với hình ảnh người mẹ tảo tần, cơi rơm thổi lửa, chăm sóc gia đình. Tiếng chim gù trên tổ bếp, tiếng em nhỏ học bài bên ngưỡng cửa trong làn khói mờ mịt tạo nên một không gian đầm ấm, gần gũi. Khói bếp như sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình, là biểu tượng của sự sum họp, của tình mẫu tử và sự chăm sóc tận tụy.

Hơn thế nữa, khói bếp trong bài thơ còn mang màu sắc rất đặc trưng của cuộc sống lao động, vất vả nhưng tràn đầy yêu thương. Mùi khói cay nồng, mùi rơm ướt hòa quyện với không khí sau cơn mưa đêm khiến người đọc cảm nhận được sự chân thực, sinh động của cảnh vật và con người. Khói bếp như thấm đẫm cả không gian làng quê, len lỏi khắp mọi ngõ ngách, tạo nên một bức tranh vừa cụ thể vừa mơ màng, vừa hiện thực vừa trữ tình.

Qua hình ảnh khói bếp, tác giả không chỉ gợi nhớ về một tuổi thơ bình dị, mà còn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc, niềm tự hào về cuộc sống giản đơn nhưng đầy ắp tình người. Khói bếp là biểu tượng của sự sống, của truyền thống và của những giá trị văn hóa lâu đời của làng quê Việt Nam.


Bài văn trên đã phân tích rõ nét hình ảnh khói bếp trong bài thơ, thể hiện sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên, giữa quá khứ và hiện tại, đồng thời bày tỏ tình cảm sâu sắc với quê hương. Nếu bạn cần bài văn theo phong cách khác hoặc dài hơn, mình sẵn sàng giúp bạn!

21 tháng 5

Trong bài thơ “Ba tôi” của Xuân Quỳnh, qua hình ảnh người cha khiêm nhường, dịu dàng với những lo toan thầm lặng, tác giả gợi lên cho mỗi chúng ta suy ngẫm sâu sắc về tình mẫu tử và tình con đối với mẹ. Mẹ là người bao dung, hy sinh thầm lặng, luôn lặng lẽ sẻ chia mọi buồn vui với ta, nhưng dường như không ai – kể cả người cha trong thơ – có thể nói trọn vẹn nỗi lòng mẹ. Từ đó, ta nhận ra một chân lý: tình mẹ cao cả đến mức vượt lên trên mọi lời lẽ, và bổn phận làm con là phải biết trân trọng, thấu hiểu và đáp đền tình yêu ấy.

Trước hết, hiểu đạo làm con nghĩa là biết lắng nghe, thấu cảm với mẹ. Mẹ bao giờ cũng đặt hạnh phúc của con lên trên hết, sẵn sàng quên mình để lo toan cho gia đình. Khi mẹ dặn dò từng li từng tí, không phải vì nghi ngờ con kém cỏi, mà bởi mẹ muốn con an toàn, muốn con trưởng thành. Lắng nghe mẹ không chỉ là nghe lời mẹ nói, mà còn là cảm nhận được lo lắng, tâm tư ẩn giấu trong từng cử chỉ, ánh mắt. Đôi khi, một cái ôm, một nụ cười động viên của con cũng đủ khiến mẹ vững lòng trước muôn vàn khó nhọc.

Thứ hai, làm con phải biết tri ân và báo đáp công ơn sinh dưỡng. Công ơn mẹ cha dạy dỗ, nuôi nấng, chúng ta khó đong đếm bằng vật chất. Dẫu có thành đạt hay xa xứ, con vẫn cần tìm cách bày tỏ lòng biết ơn: từ chăm sóc mẹ lúc ốm đau, chia sẻ gánh nặng gia đình, cho đến việc giữ gìn chữ hiếu trong hành xử, lời nói. Mỗi lần ta thành công trên đường đời cũng là niềm vui khôn tả đối với mẹ. Vì vậy, báo hiếu không phải chờ đến lúc “rảnh rỗi” hay khi mẹ đã già nua mà phải là việc làm thường nhật, liên tục.

Cuối cùng, làm con hiểu đạo còn là gìn giữ gia phong, tôn trọng truyền thống gia đình. Mẹ đưa ta đến với thế giới, dạy ta yêu thương và nhân ái. Con lớn lên, thành nhân, hãy sống sao cho mẹ luôn tự hào: lễ phép với người lớn, yêu thương và chia sẻ với những mảnh đời khó khăn, góp phần vun đắp mái ấm gia đình. Khi hành xử tử tế, ta đã phần nào đền đáp được ân nghĩa của mẹ.

Tóm lại, “Ba tôi” khơi gợi trong ta khát vọng gần mẹ hơn, thấu hiểu mẹ hơn và trân trọng tình mẫu tử thiêng liêng. Là con, chúng ta hãy luôn biết lắng nghe, biết ơn và biết sống xứng đáng với tấm lòng dạt dào của mẹ – người đã cho ta cả bầu trời yêu thương.

11 tháng 5

Lời mẹ dặn con trong câu thơ "Hãy yêu lấy con người, dù trăm cay ngàn đắng, đến với ai gặp nạn, xong rồi, chơi với cây!" chứa đựng một triết lý sống nhân văn và sâu sắc. Câu "Hãy yêu lấy con người" nhấn mạnh tầm quan trọng của tình yêu và lòng nhân ái trong cuộc sống, khuyên con phải biết yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. "Dù trăm cay ngàn đắng" là lời nhắc nhở về sự kiên trì, nhẫn nại trong những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Mặc dù gặp phải muôn vàn gian truân, nhưng tình yêu với con người vẫn phải là ưu tiên hàng đầu. Câu "Đến với ai gặp nạn" khẳng định thái độ nhân ái và trách nhiệm của con người đối với xã hội, nhất là khi người khác đang gặp khó khăn. Cuối cùng, "Xong rồi, chơi với cây!" như một lời dặn dò về sự cần thiết của việc tìm về với thiên nhiên, để tìm lại sự bình yên trong tâm hồn sau những cuộc sống vất vả, mệt mỏi. Lời mẹ không chỉ khuyên con về tình yêu thương con người mà còn về sự hòa mình vào thiên nhiên để tìm sự an yên cho bản thân.

có ai trên Thái Nguyên ko ạ, cho mh hỏi có quen ai tên là Nguyễn Châu Anh học lớp 1 ko ạ


Lời dặn của mẹ trong đoạn thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng những triết lý sâu sắc về cách sống và đối nhân xử thế. "Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay ngàn đắng" thể hiện một tình yêu thương bao la, vị tha đối với mọi người xung quanh, dù cuộc sống có nhiều khó khăn, thử thách. Lòng yêu thương con người phải là nền tảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động. "Đến với ai gặp nạn" là lời nhắc nhở về tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia giữa người với người. "Xong rồi, chơi với cây!" là lời khuyên về sự cân bằng trong cuộc sống. Sau khi đã giúp đỡ mọi người, hãy tìm về với thiên nhiên, với cây cỏ để thư giãn, tĩnh tâm và tìm lại sự bình yên trong tâm hồn. Thiên nhiên có khả năng chữa lành, giúp con người tái tạo năng lượng và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Tóm lại, lời dặn của mẹ là một bài học quý giá về cách sống yêu thương, sẻ chia và tìm kiếm sự cân bằng trong cuộc sống.

Tick nha

9 tháng 5

Khi muốn thay đổi cuộc đời, nên đi tới một miền đất khác hay thay đổi chính bản thân mình?

Nhà văn Neil Gaiman từng viết: “Chỉ cần bỏ đi tới một miền đất khác sống thì đời họ sẽ khác đi. Những cách đó không phải lúc nào cũng hiệu quả. Bởi dù ở đâu chăng nữa, bạn vẫn sẽ mang theo chính mình”. Câu nói này gợi lên câu hỏi: Khi muốn thay đổi cuộc đời, chúng ta nên tìm đến một miền đất mới hay thay đổi chính bản thân mình? Theo tôi, thay đổi bản thân là yếu tố cốt lõi và bền vững hơn, bởi môi trường mới chỉ là điều kiện, còn bản thân mới là gốc rễ của sự thay đổi.

Việc đến một miền đất khác có thể mang lại cơ hội mới, như môi trường sống tốt hơn, công việc thuận lợi hơn, hay những mối quan hệ tích cực. Chẳng hạn, một người rời quê lên thành phố có thể tìm thấy cơ hội học tập và phát triển. Tuy nhiên, nếu họ không thay đổi tư duy, thói quen hay cách nhìn nhận cuộc sống, những vấn đề cũ như lười biếng, tiêu cực hay thiếu trách nhiệm vẫn sẽ bám theo. Như Neil Gaiman đã nói, “bạn vẫn sẽ mang theo chính mình”, nghĩa là những hạn chế nội tại không tự mất đi chỉ vì thay đổi không gian sống.

Ngược lại, thay đổi bản thân là cách tiếp cận sâu sắc và bền vững. Khi cải thiện tư duy, rèn luyện kỹ năng, xây dựng thói quen tốt hay học cách kiểm soát cảm xúc, chúng ta có thể vượt qua khó khăn ở bất kỳ đâu. Một người biết tự phản ánh, điều chỉnh bản thân sẽ tìm thấy cơ hội ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Ví dụ, nhiều người thành công không phải vì họ đến một nơi lý tưởng, mà vì họ không ngừng hoàn thiện mình, từ đó biến mọi môi trường thành cơ hội.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng một môi trường mới đôi khi là chất xúc tác thúc đẩy sự thay đổi. Một nơi phù hợp có thể khơi dậy động lực, giúp ta dễ dàng cải thiện bản thân hơn. Vì vậy, lý tưởng nhất là kết hợp cả hai: thay đổi bản thân trong một môi trường hỗ trợ. Nhưng nếu phải chọn, thay đổi chính mình là yếu tố quyết định, bởi chỉ khi thay đổi từ bên trong, ta mới thực sự làm chủ cuộc đời mình.

Tóm lại, để thay đổi cuộc đời, thay đổi bản thân là nền tảng quan trọng hơn việc chỉ tìm đến một miền đất mới. Dù ở đâu, chính sự nỗ lực hoàn thiện mình mới tạo nên sự khác biệt thực sự.