K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Chuyện ông Hoàng Cầm Minh Chuyên         Có một sự kiện đã theo hàng triệu người lính ra trận trong suốt những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với tất cả các đơn vị quân đội. Đó là sự kiện bếp Hoàng Cầm.         Cái bếp mang tên người sinh ra nó là một anh bộ đội tên là Hoàng Cầm, quê ở tỉnh...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Chuyện ông Hoàng Cầm

Minh Chuyên

        Có một sự kiện đã theo hàng triệu người lính ra trận trong suốt những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với tất cả các đơn vị quân đội. Đó là sự kiện bếp Hoàng Cầm.

        Cái bếp mang tên người sinh ra nó là một anh bộ đội tên là Hoàng Cầm, quê ở tỉnh Nam Định, nguyên chiến sĩ nuôi quân Sư đoàn 308, Đại đoàn Quân Tiên phong. Cái bếp kì diệu ấy đã cùng các đơn vị bộ đội tham gia chiến dịch Biên giới, Hoà Bình, Điện Biên Phủ và sau đó tiếp tục cùng các đơn vị thời chống Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Bếp Hoàng Cầm là một yếu tố tạo nên sự bất ngờ, bí mật cho bộ đội chiến thắng và biết bao người lính nhờ nó mà không phải đổ máu, hi sinh. Thời gian và năm tháng qua đi, nhiều người đã quên tên anh bộ đội Hoàng Cầm mà chỉ còn nhớ tên cái bếp Hoàng Cầm của anh. Cái bếp đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người […].

        Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên ở làng Cát Nội, xã Trực Đại, tỉnh Nam Định. Sau này gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay là thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 2 năm 1946, anh thanh niên Hoàng Cầm tình nguyện lên đường vào bộ đội chống Pháp. Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ vì thế, Hoàng Cầm được cử làm chiến sĩ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền phương Sư đoàn 308. Là anh nuôi, Hoàng Cầm luôn tận tâm, tận lực với công việc nấu ăn phục vụ bộ đội nhiều chiến dịch. Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hi sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hi sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn. Khói lửa từ những cái bếp nuôi quân bốc lên, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai hoạ. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh. Bộ đội ăn cơm sống, khê, nguội lạnh, không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm nhớ một lần, đồng chí thủ trưởng nhắc tổ quân nuôi quân:

        – Các đồng chí cố gắng xem có cách nào khắc phục cái bếp. Để anh em thương vong, chết chóc ở ngay nơi đóng quân và nơi ăn uống khổ cực là mình có tội với nhân dân, với bộ đội đấy.

        Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội. Hoàng Cầm trăn trở ngày đêm suy nghĩ. Có buổi anh ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán cây rừng quan sát anh em nhóm bếp và đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhìn làn khói xanh cuồn cuộn bay lên.

        Trong bản tự thuật quá trình mày mò, sáng chế kiểu bếp mới, Hoàng Cầm kể: “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám lợn ở vùng Nam Định quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một lỗ thoát hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung, ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào để bếp đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau, tôi mới nghĩ ra cảnh mình từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống đất, chất rạ đốt, hầu như khói hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng cải tiến thành bếp nuôi quân kiểu mới sẽ hạn chế được khói và lửa bốc cao.”.

        Từ cơ sở đó, Hoàng Cầm miệt mài ngày đêm nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp. Ngày ngày anh tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng, đeo xoong nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Không biết có thành công hay thất bại nhưng sợ anh em tốn sức, vất vả, anh giấu kín mọi người. Anh đào hàng chục cái bếp khác nhau, có nhiều nhánh dẫn khói như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói ra vẫn phảng phất bay lên. Lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi, trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.

        Trong bản tự thuật, Hoàng Cầm viết: “Lần này, bếp có nhiều ưu điểm, đã giấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống vẫn là lảng bảng bay lên ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp trời mưa, khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi, sướng quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối rừng chẻ ra lát lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh dẫn khói. Quả nhiên, khi đun khói cứ là là, toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa.”.

        [...] Cái bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày.

        Tháng 10 năm 1952, đơn vị quyết định cái bếp được mang tên người chiến sĩ đã sáng tạo ra nó: bếp Hoàng Cầm. Anh chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3. Và năm đó, Hoàng Cầm được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Bếp Hoàng Cầm được phổ biến áp dụng trong toàn quân.

        Từ đó, cái bếp theo bộ đội hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bếp Hoàng Cầm tiếp tục là bạn đồng hành của bộ đội nuôi quân suốt những năm chống Mỹ và nó đã đi vào lời bài hát làm cả triệu anh bộ đội xao xuyến khôn nguôi: “Nổi lửa lên em, đánh Mỹ đêm ngày… Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước. Hơi bếp Hoàng Cầm sưởi ấm khắp nơi nơi…” […].

        Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm. Nhưng cái bếp của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hay cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc có thể sẽ trở thành cái bếp huyền thoại truyền mãi đến muôn đời.

Hà Nội – 2003

(Người lang thang không cô đơn, truyện kí, NXB Văn học, Hà Nội, 2018, trang 152 – 163)

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Câu 2. Văn bản kể về sự việc chính nào?

Câu 3. Phát biểu cảm hứng chủ đạo được tác giả thể hiện trong văn bản.

Câu 4. Nội dung của văn bản này là gì?

Câu 5. Em thấy ấn tượng với chi tiết nào trong văn bản? Vì sao? 

2
15 tháng 1

Quê ở tỉnh ko biết.


15 tháng 1

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là thuyết minh, kết hợp với tự sự và biểu cảm. Tác giả thuyết minh về sự ra đời và ý nghĩa của bếp Hoàng Cầm, đồng thời kể lại quá trình sáng chế ra loại bếp này và bày tỏ sự ngưỡng mộ, trân trọng đối với người lính Hoàng Cầm. Câu 2: Văn bản kể về sự việc chính là qCâu 1:** Phương thức biểu đạt chính của văn bản là thuyết minh, kết hợp với tự sự và biểu cảm. Tác giả thuyết minh về sự ra đời và ý nghĩa của bếp Hoàng Cầm, đồng thời kể lại quá trình sáng chế ra loại bếp này và bày tỏ sự ngưỡng mộ, trân trọng đối với người lính Hoàng Cầm. Câu 2: Văn bản kể về sự việc chính là quá trình sáng chế ra bếp Hoàng Cầm của anh bộ đội Hoàng Cầm và ý nghĩa to lớn của loại bếp này đối với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Câu 3: Cảm hứng chủ đạo được tác giả thể hiện trong văn bản là sự ngưỡng mộ, trân trọng và ca ngợi lòng yêu nước, sự sáng tạo, cần cù, thông minh và tinh thần trách nhiệm cao cả của người lính Hoàng Cầm. Tác giả muốn tôn vinh những đóng góp thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng của những người lính hậu phương, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Câu 4: Nội dung của văn bản là giới thiệu về bếp Hoàng Cầm, một sáng chế của anh bộ đội Hoàng Cầm trong thời chiến, đã góp phần to lớn vào việc đảm bảo sức khỏe, an toàn cho bộ đội và thể hiện ý chí quật cường, trí thông minh của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Văn bản cũng đề cao tinh thần yêu nước, sự sáng tạo và lòng dũng cảm của người lính Hoàng Cầm, một anh hùng thầm lặng. Câu 5: Tôi ấn tượng nhất với chi tiết Hoàng Cầm miệt mài, kiên trì thử nghiệm hàng chục lần để hoàn thiện bếp. Anh đã dành nhiều thời gian, công sức, thậm chí cả sự hy sinh cá nhân (giấu kín việc làm của mình) để sáng tạo ra một loại bếp phục vụ bộ đội, đảm bảo sức khỏe cho đồng đội trong điều kiện chiến tranh khắc nghiệt. Chi tiết này cho thấy sự quyết tâm, lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm cao cả của anh, vượt lên trên cả những khó khăn thử thách. Hành động này không chỉ thể hiện sự thông minh, sáng tạo mà còn là biểu hiện của tình đồng đội, lòng yêu thương sâu sắc đối với đồng bào, chiến sĩ.

(4 điểm) Đọc văn bản vả trả lời câu hỏi:           Những giọt lệ Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? Bao giờ tôi hết được yêu vì(1), Bao giờ mặt nhựt tan thành máu, Và khối lòng tôi cứng tợ si?   Họ đã xa rồi khôn níu lại, Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa(2)… Người đi, một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.   Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đem bỏ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản vả trả lời câu hỏi: 

         Những giọt lệ

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?

Bao giờ tôi hết được yêu vì(1),

Bao giờ mặt nhựt tan thành máu,

Và khối lòng tôi cứng tợ si?

 

Họ đã xa rồi khôn níu lại,

Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa(2)

Người đi, một nửa hồn tôi mất,

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

 

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem bỏ tôi dưới trời sâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết,

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

                                         (Hàn Mặc Tử)

* Đôi nét về tác giả:

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê quán ở Quảng Bình. Cuộc đời chàng phải chịu nhiều đắng cay, đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần vì căn bệnh phong quái ác. Thơ chàng thể hiện một thế giới nội tâm phức tạp, với những xúc cảm vừa mãnh liệt, vừa đau đớn, tuyệt vọng, cô đơn về tình yêu và về cuộc sống.

* Chú thích:

– Yêu vì: (Từ cũ) yêu quý và vì nể.

– Chưa bưa: (Tiếng miền Trung) chưa chán.

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt trong bài thơ trên.

Câu 2. Đề tài trong bài thơ là gì? 

Câu 3. Chỉ ra và nêu cảm nhận của em về một hình ảnh thơ mang tính tượng trưng trong bài thơ.

Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ cuối.

Câu 5. Nhận xét về cấu tứ của bài thơ.

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Giữa người với người       Cuộc tình của em mẻ một miếng sau bữa bồ khoe ca trực tối qua có thằng trộm trâu bị đánh suýt chết, ngay lúc cấp cứu bồ kịp lấy điện thoại chụp cái ảnh thằng nhỏ nằm rúm ró tải ngay lên mạng xã hội, thiên hạ ào vô thích quá trời. Nhỏ em nghĩ bồ quên vai trò mình là y sĩ còn thằng nhỏ là bệnh nhân,...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Giữa người với người

      Cuộc tình của em mẻ một miếng sau bữa bồ khoe ca trực tối qua có thằng trộm trâu bị đánh suýt chết, ngay lúc cấp cứu bồ kịp lấy điện thoại chụp cái ảnh thằng nhỏ nằm rúm ró tải ngay lên mạng xã hội, thiên hạ ào vô thích quá trời. Nhỏ em nghĩ bồ quên vai trò mình là y sĩ còn thằng nhỏ là bệnh nhân, nhưng sao có thể quên kẻ đang chịu đau đớn kia là một con người?

      Chuyện đã cũ rồi, tình cũng thành tình cũ, nhưng em nói không bao giờ ghé lại ngôi nhà trên mạng của bồ, giờ cũng là một địa chỉ đông khách thăm. Em sợ lại gặp trên ấy gương mặt biến dạng của người phụ nữ bị chồng thiêu, bàn tay rụng đốt của một em bé bị bạo hành. Những con người buộc phải đến khoa cấp cứu trong tình trạng bên bờ sống chết, chỉ với điện thoại thông minh buộc vào mạng xã hội là thành một cần câu, anh y sĩ ung dung biến ca trực của mình thành buổi câu tín nóng hổi. "Và bằng mồi người", em nói, không cười.

      Hai chữ "mồi người" thịnh hành khá lâu, lúc những trang báo lá cải bắt đầu câu người đọc bằng những tình duyên, đường cong, rãnh sâu của diễn viên người mẫu. Lần hồi cũng lạt miệng, mồi câu không còn móc vào giới phù hoa. Đầu năm những người bán bắp luộc chết giấc với tin nồi nước luộc có pin đèn, cuối năm giới hủ tiếu gõ sập tiệm với tin nước dùng chuột cống. Mẹ em nấu chè dừa non bán, hổm rày lo rầu sợ mở báo thấy đăng tin chè bưởi có thuốc rầy, chẳng hạn. Tai bay vạ gió, biết đâu chỉ vì một người bán chè nào đó ở cổng trường thấy một cậu học trò chửi thề ghê quá, bảo ban nó mấy câu, ai ngờ nó để bụng về tung lên mạng cái câu ăn chè bưởi ngộ độc thuốc trừ sâu. Những trang báo đói ngấu chộp lấy, năm giây sau cả nước biết tin, tẩy chay món chè của bà già.

      Em hỏi chị bạ gì cũng đọc, có chuyện nào truyền thuyết nào về cái sự người không ngó thấy người, kiểu như truyền thuyết Babel giải thích rằng bởi vì chúa trời trừng phạt nên chúng ta không nghe và hiểu nhau. Đâu phải tự dưng mà lịch sử thế giới triền miên những cuộc chiến vì tôn giáo, sắc tộc, màu da, nhìn nhau chi để nhận diện giặc hay ta. Điện thoại thương hiệu Mỹ, Hàn, hoàn toàn không mắc mớ gì tới chén cơm của mình đâu mà vẫn tung tóe những lời nhiếc mắng trên diễn đàn công nghệ. Một vụ cướp tiền giữa ban ngày, người ta chỉ thấy giấy bạc bay mà không thấy nạn nhân. Hôi bia cũng vì chỉ thấy bia lăn lóc ra đường.

      “Tụi mình cứ như bị lời nguyền.”, em nói. Biết đâu những bộ tộc trong rừng rậm châu Phi, họ đang lưu truyền một vài lời nguyền rằng người ta luôn bị che mất tầm nhìn bởi những bức tường vô hình, chọn bầy đàn này, nghĩa là chống lại bầy đàn khác, chọn tôn giáo này buộc phải miệt khinh người của tôn giáo khác. Đến và đi cùng lúc, trong cái cách người ta gần lại có ẩn chứa sự xa nhau.

      Ngay cả mạng xã hội, thứ dùng để chia sẻ, cũng đi bên lằn ranh chia rẽ. Nó giúp em tìm lại rất nhiều bạn học cũ, tham gia những chuyến từ thiện, quen và yêu anh y sĩ đẹp trai. Nhưng mạng xã hội cũng góp tay cho đường ai nấy bước. Mẹ em tiếc thằng rể hụt, nói tao thấy nó hiền queo, có gì để chê đâu. Em cười cười. Thí dụ một người thấy cô gái trèo thành cầu để nhảy sông tự vẫn, anh ta đắn đo không biết nên giữ cô lại, hay cứ để cổ nhảy và ta chụp ảnh đem lên mạng hái hàng trăm cái tặc lưỡi xuýt xoa. Cái đắn đo ấy, dù là trong khoảnh khắc, cũng đáng sợ.

      Đến đồ chơi mà cũng điều chỉnh được hành vi con người, làm cho tình người xao lãng, động vật cấp cao coi vậy mà dễ tổn thương.

(Nguyễn Ngọc Tư)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2. Đề tài của văn bản này là gì?

Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong đoạn trích sau: 

     Đầu năm những người bán bắp luộc chết giấc với tin nồi nước luộc có pin đèn, cuối năm giới hủ tiếu gõ sập tiệm với tin nước dùng chuột cống. Mẹ em nấu chè dừa non bán, hổm rày lo rầu sợ mở báo thấy đăng tin chè bưởi có thuốc rầy, chẳng hạn. Tai bay vạ gió, biết đâu chỉ vì một người bán chè nào đó ở cổng trường thấy một cậu học trò chửi thề ghê quá, bảo ban nó mấy câu, ai ngờ nó để bụng về tung lên mạng cái câu ăn chè bưởi ngộ độc thuốc trừ sâu. Những trang báo đói ngấu chộp lấy, năm giây sau cả nước biết tin, tẩy chay món chè của bà già.

Câu 4. Hai câu văn: Một vụ cướp tiền giữa ban ngày, người ta chỉ thấy giấy bạc bay mà không thấy nạn nhân. Hôi bia cũng vì chỉ thấy bia lăn lóc ra đường. gợi cho em những suy nghĩ gì về thực trạng đạo đức con người Việt Nam hiện nay?

Câu 5. Qua văn bản, em rút ra được những bài học nào? 

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:           Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài          Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông          Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo          Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng         ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

         Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

         Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

         Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

         Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

         Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.

         Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

         Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

         Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”

         Nàng rằng: “Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

         Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

         Còn như vào trước ra sau,

Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”

         Từ rằng: “Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

         Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?”

         Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

         Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

         Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người?

         Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

         Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”

         Hai bên ý hợp tâm đầu,

Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.

         Ngỏ lời nói với băng nhân,

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.

         Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.

         Trai anh hùng gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

               (Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015, tr. 293 - 297)

Câu 1. (0.5 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. (0.5 điểm) Hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều gặp nhau ở đâu?

Câu 3. (1.0 điểm) Anh/chị có nhận xét gì nhân vật Thúy Kiều qua những câu thơ sau?

         Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

         Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Câu 4. (1.0 điểm) Anh/chị có nhận xét như thế nào về nhân vật Từ Hải qua đoạn trích?

Câu 5. (1.0 điểm) Văn bản trên đã khơi gợi trong anh/chị những tình cảm/cảm xúc gì? Vì sao?

1
15 tháng 1

chịu


(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:           Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài          Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông          Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo          Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng         ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

         Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

         Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông

         Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo

         Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng

         Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.

         Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

         Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

         Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”

         Nàng rằng: “Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

         Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

         Còn như vào trước ra sau,

Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”

         Từ rằng: “Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

         Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?”

         Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

         Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

         Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người?

         Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

         Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”

         Hai bên ý hợp tâm đầu,

Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.

         Ngỏ lời nói với băng nhân,

Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.

         Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.

         Trai anh hùng gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

               (Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015, tr. 293 - 297)

Câu 1. (0.5 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. (0.5 điểm) Hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều gặp nhau ở đâu?

Câu 3. (1.0 điểm) Anh/chị có nhận xét gì nhân vật Thúy Kiều qua những câu thơ sau?

         Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

         Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”

Câu 4. (1.0 điểm) Anh/chị có nhận xét như thế nào về nhân vật Từ Hải qua đoạn trích?

Câu 5. (1.0 điểm) Văn bản trên đã khơi gợi trong anh/chị những tình cảm/cảm xúc gì? Vì sao?

1
29 tháng 2 2024

1. Người kể chuyện trong đoạn trích trên là chủ thể trữ tình 

 

 

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Hai lần chết      Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Hai lần chết

     Dung là con thứ bốn. Vì vậy khi nàng ra đời, không được cha mẹ hoan nghênh lắm. Thực ra, không phải cha mẹ nàng hất hủi con, vẫn coi người con như một cái phúc trời ban cho, nhưng lúc bấy giờ cha mẹ nàng đã nghèo rồi. Với ba người con trước, hai trai, một gái, cha mẹ Dung đã thấy khó nhọc, vất vả làm lụng mới lo đàn con đủ ăn, và hai con trai được đi học. Sau Dung lại còn con bé út nữa, nên cảnh nhà càng thêm túng bấn.

     […] Cha mẹ Dung cũng không nghĩ đến sự bắt nàng đi học như anh chị nàng, có lẽ vì nghĩ rằng lo cho hai người cũng đã đủ.

     Dung càng lớn càng gầy gò đi. Suốt ngày nàng chỉ chạy đánh khăng đánh đáo với lũ trẻ con nhà "hạ lưu"(1) - cha nàng gọi thế những người nghèo khổ trú ngụ ở chung quanh xóm chợ. Nhiều khi đi đâu về trông thấy, cha nàng gọi về, đánh cho mấy roi mây và cấm từ đấy không được chơi với lũ trẻ ấy. Những trận đòn xong, Dung lại mon men chơi với lũ trẻ, và thấy hình như cha nàng cũng chỉ cấm lấy lệ chứ không thiết gì đến, nàng lại vững tâm nhập vào bọn hạ lưu đó, suốt ngày dông dài ở ngoài chợ.

     Một đôi khi, mẹ nàng kịp về đến nhà trông thấy nàng quần áo lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm, bùn, chỉ chép miệng thở dài nói:

     - Con này rồi sau đến hỏng mất thôi.

     Rồi bà lại quay đi buôn bán như thường, sau khi đã để lại cho chồng một món tiền tiêu pha trong nhà, và sau khi anh chị Dung mỗi người đã nũng nịu đòi được một hào để ăn quà.

     Dung thấy thế cũng chẳng ganh tị, vì nàng xưa nay đối với các anh chị cũng không thân thiết lắm. Những khi nàng đang chơi thấy đói, nàng lại chạy về xin u già bát cơm nguội hay thức ăn gì khác thế nào u già cũng đã để phần rồi chạy nhảy như một con vật non không biết lo nghĩ gì.

     Những sự ấy đã làm cho Dung có một cái tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Ngày trong nhà có tết nhất, các anh chị và em nàng được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm lụng dưới bếp, Dung cũng không ca thán hay kêu ca gì. Mà nàng biết kêu ca cũng không được. Nhiều lần nàng đã nghe thấy u già nói mẹ nàng may cho cái áo, thì mẹ nàng trả lời:

     - May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách nát ra à?

     Còn nói với cha thì Dung biết là vô công hiệu, vì cha nàng không dám tự ý làm cái gì bao giờ cả.

     […] Thế là Dung đi lấy chồng.

     Nàng đi lấy chồng cũng bỡ ngỡ và lạ lùng như người nhà quê lên tỉnh. Dung coi đi lấy chồng như một dịp đi chơi xa, một dịp rời bỏ được cái gia đình lạnh lẽo và cái xóm chợ quen mắt quá của nàng. Đi lấy chồng đối với nàng là hưởng một sự mới.

     Vì thế, khi bước chân lên ô tô về nhà chồng, Dung không buồn bã khóc lóc gì cả. Nàng còn chú ý đến những sự lạ mắt lạ tai của nhà giai, không nghe thấy những lời chúc hơi mát mẻ và ganh tị của hai chị và em bé nàng nữa.

     Về đến nhà chồng, Dung mới biết chồng là một anh học trò lớp nhì, vừa lẫn thẩn vừa ngu đần. Nàng đã bé mà chồng nàng lại còn bé choắt hơn. Nhưng bà mẹ chồng với các em chồng nàng thì to lớn ác nghiệt lắm.

     Qua ngày nhị hỉ, Dung đã tháo bỏ đôi vòng trả mẹ chồng, ăn mặc nâu sồng như khi còn ở nhà, rồi theo các em chồng ra đồng làm ruộng. Nhà chồng nàng giàu, nhưng bà mẹ chồng rất keo kiệt, không chịu nuôi người làm mà bắt con dâu làm.

     Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

     Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

     Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

     Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

     Một hôm tình cờ cả nhà đi vắng, Dung vội ăn cắp mấy đồng bạc trinh lẻn ra ga lấy vé tàu về quê. Đến nơi, mẹ nàng ngạc nhiên hỏi:

     - Kìa, con về bao giờ thế? Đi có một mình thôi à?

     Dung sợ hãi không dám nói rằng trốn về, phải tìm cớ nói dối. Nhưng đến chiều tối, nàng lo sợ quá, biết rằng thế nào ngày mai mẹ chồng nàng cũng xuống tìm. Nàng đánh bạo kể hết tình đầu cho cha mẹ nghe, những nỗi hành hạ nàng phải chịu, và xin cho phép nàng ở lại nhà.

     Cha nàng hút một điếu thuốc trong cái ống điếu khảm bạc, rồi trầm ngâm như nghĩ ngợi. Còn mẹ nàng thì đùng đùng nổi giận mắng lấy mắng để:

     - Lấy chồng mà còn đòi ở nhà. Sao cô ngu thế. Cô phải biết cô làm ăn thế đã thấm vào đâu mà phải kể. Ngày trước tôi về nhà này còn khó nhọc bằng mười chứ chả được như cô bây giờ đâu, cô ạ.

     Sớm mai, bà mẹ chồng Dung xuống. Vừa thấy thông gia, bà đã nói mát:

     - Nhà tôi không có phúc nuôi nổi dâu ấy. Thôi thì con bà lại xin trả bà chứ không dám giữ.

     Mẹ Dung cãi lại:

     - Ô hay, sao bà ăn nói lạ. Bây giờ nó đã là dâu con bà, tôi không biết đến. Mặc bà muốn xử thế nào thì xử. Chỉ biết nó không phải là con tôi nữa mà thôi.

     Bà nọ nhường bà kia, rút cục Dung được lệnh của mẹ phải sửa soạn để đi với mẹ chồng.

     Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hy vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

     Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. Trí nàng sắc lại khi ước lạnh đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

     Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     - Tỉnh rồi, tỉnh rồi, không lo sợ gì nữa. Bây giờ chỉ đắp chăn cho ấm rồi sắc nước gừng đặc cho uống là khỏi.

     Dung dần dần nhớ lại. Khi nàng mở mắt nhìn, thấy mình nằm trong buồng, người u già cầm cây đèn con đứng đầu giường nhìn nàng mỉm cười một cách buồn rầu:

     - Cô đã tỉnh hẳn chưa?

     Dung gật:

     - Tỉnh rồi.

     Một lát, nàng lại hỏi:

     - Tôi làm sao thế nhỉ... Bà cả đâu u? Bà ấy về chưa?

     U già để tay lên trán Dung, không trả lời câu hỏi:

     - Cô hãy còn mệt. Ngủ đi.

     Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

     Dung buồn bã trả lời:

     - Con xin về.

     Khi theo bà ra ga, Dung thấy người hai bên đường nhìn nàng bàn tán thì thào. Nàng biết người ta tò mò chú ý đến nàng.

     Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.

     Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo. Khi bà cả lần ruột tượng gọi nàng lại đưa tiền lấy vé, Dung phải vội quay mặt đi để giấu mấy giọt nước mắt.

(Thạch Lam)

Chú thích: Hạ lưu: Tầng lớp thấp kém trong xã hội. Cha Dung gọi thế là vì ông có xuất thân là con cháu nhà quan. Khi ông cụ cố mất đi, cơ nghiệp ăn tiêu dần, cảnh nhà ông cũng dần trở nên sa sút, chỉ còn cái danh không.

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Đề tài của văn bản này là gì? 

Câu 3. Nhận xét về sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản.

Câu 4. Em hiểu như thế nào về đoạn trích: Trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa.?

Câu 5. Qua văn bản, tác giả gửi gắm tư tưởng, tình cảm nào đối với số phận đáng thương của nhân vật Dung?

 
0
15 tháng 1

câu1 : bài làm

Hoàng Cầm trong tác phẩm hiện lên là một hình tượng nghệ sĩ tài hoa, đa cảm và giàu lòng yêu nước. Sự tài hoa của ông được thể hiện qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, thổi hồn vào từng câu chữ, khắc họa chân thực vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Tình yêu quê hương đất nước trong ông không chỉ là những lời tuyên ngôn hùng hồn mà còn là sự thấm đẫm trong từng bài thơ, từng câu văn, thể hiện qua nỗi nhớ da diết, sự trăn trở trước số phận đất nước. Đồng thời, Hoàng Cầm cũng là người mang trong mình nỗi buồn sâu lắng, sự cô đơn của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm trước những biến động của lịch sử và đời sống. Sự cô đơn ấy không phải là sự gục ngã mà là một sức mạnh nội tại, thúc đẩy ông sáng tạo, tìm kiếm những giá trị đích thực của cuộc sống. Hình tượng Hoàng Cầm không chỉ là một nhà văn, nhà thơ tài năng mà còn là một con người giàu tình cảm, sống trọn vẹn với đam mê và lý tưởng của mình, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Sự kết hợp giữa tài năng nghệ thuật, lòng yêu nước và nỗi buồn sâu lắng đã tạo nên một hình tượng Hoàng Cầm đầy sức hút và đáng suy ngẫm.

câu 2: bài làm

Cuộc sống hiện đại, với nhịp độ phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, đặt ra những thách thức to lớn nhưng cũng mở ra vô vàn cơ hội. Trong bối cảnh đó, sự sáng tạo không chỉ là một phẩm chất cá nhân đáng quý mà còn là yếu tố then chốt quyết định sự thành công và phát triển bền vững của cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Thứ nhất, sự sáng tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các quốc gia mà còn giữa các doanh nghiệp, các cá nhân. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới sản phẩm, dịch vụ, tìm kiếm những mô hình kinh doanh mới, hiệu quả hơn. Sự sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm dẫn đến những đột phá công nghệ, những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, tạo ra lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những “kỳ tích” của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Apple, Google hay Samsung chính là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của sự sáng tạo trong kinh doanh. Thứ hai, sự sáng tạo góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nan giải. Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, ## Ý nghĩa của sự sáng tạo trong cuộc sống hiện đại Cuộc sống hiện đại, với nhịp độ phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, đặt ra những thách thức to lớn nhưng cũng mở ra vô vàn cơ hội. Trong bối cảnh đó, sự sáng tạo không chỉ là một phẩm chất cá nhân đáng quý mà còn là yếu tố then chốt quyết định sự thành công và phát triển bền vững của cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Thứ nhất, sự sáng tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các quốc gia mà còn giữa các doanh nghiệp, các cá nhân. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới sản phẩm, dịch vụ, tìm kiếm những mô hình kinh doanh mới, hiệu quả hơn. Sự sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm dẫn đến những đột phá công nghệ, những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, tạo ra lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những “kỳ tích” của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Apple, Google hay Samsung chính là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của sự sáng tạo trong kinh doanh. Thứ hai, sự sáng tạo góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nan giải. Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội…, sự sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm các giải pháp bền vững. Những ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ xanh, nông nghiệp thông minh… giúp con người giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, hướng tới một tương lai phát triển bền vững. Sự sáng tạo cũng đóng góp vào việc xây dựng các mô hình xã hội công bằng, hiệu quả hơn, giải quyết các vấn đề về y tế, giáo dục, an sinh xã hội… Ví dụ như việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục đã mở ra cơ hội học tập cho nhiều người hơn, bất kể địa lý hay điều kiện kinh tế. Thứ ba, sự sáng tạo làm giàu thêm đời sống tinh thần của con người. Trong xã hội hiện đại, với áp lực công việc và cuộc sống ngày càng lớn, con người cần tìm kiếm những giá trị tinh thần để cân bằng cuộc sống. Sự sáng tạo trong nghệ thuật, văn học, âm nhạc… mang đến những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, làm phong phú đời sống tinh thần, khơi dậy cảm xúc và thúc đẩy sự phát triển văn hóa. Sự sáng tạo cũng giúp con người giải trí, thư giãn, tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng sống. Những tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, văn học xuất sắc không chỉ đơn thuần là sản phẩm giải trí mà còn là những bài học quý giá về cuộc sống, tình người, khơi gợi suy nghĩ và cảm xúc của người xem, người nghe. Tuy nhiên, sự sáng tạo không phải tự nhiên mà có. Nó cần được nuôi dưỡng, rèn luyện thông qua giáo dục, môi trường sống và sự khuyến khích từ xã hội. Việc giáo dục cần hướng đến phát triển tư duy sáng tạo, khuyến khích học sinh, sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá, không sợ sai lầm. Xã hội cần tạo ra môi trường cởi mở, tôn trọng sự khác biệt, khuyến khích tinh thần đổi mới và chấp nhận rủi ro. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự sáng tạo. Tóm lại, sự sáng tạo là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững trong cuộc sống hiện đại. Nó không chỉ tạo ra giá trị kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội mà còn làm giàu thêm đời sống tinh thần của con người. Để phát huy tối đa tiềm năng của sự sáng tạo, cần có sự nỗ lực từ cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội trong việc nuôi dưỡng, khuyến khích và bảo vệ sự sáng tạo. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng một xã hội thịnh vượng, văn minh và hạnh phúc.