K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ngày xưa có một người  tên là Yết Kiêu ở làng Hạ Bì làm nghề đánh cá. Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng thấy trên bãi có hai con trâu đang nghì sừng húc nhau dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc  đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn ống thì...
Đọc tiếp

Ngày xưa có một người  tên là Yết Kiêu ở làng Hạ Bì làm nghề đánh cá. Một hôm, ông ta đi dọc theo bờ biển về làng bỗng thấy trên bãi có hai con trâu đang nghì sừng húc nhau dưới bóng trăng khuya. Sẵn đòn ống, ông cầm xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng nó. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc  đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn ống thì thấy có mấy cái lông trâu dính vào đấy. Ông mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi.

      Từ đó sức khỏe của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không ai dám đương địch. Đặc biệt là có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta tưởng như ông đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn, sáu bảy ngày mới lên.

      Hồi ấy có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biểnVạn  Ninh vây bọc, bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới, Đi đến đâu chúng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng duyên hải. Chiếc thuyền nhà vua ra đối địch bị giặc bắn đắm mất cả, nhà vua rất lo sợ, sai rao trong thiên hạ ai có cách gì lui được giặc dữ sẽ phong cho quyền cao chức trọng.

     Yết Kiêu bèn tìm đến tâu vua rằng: “ Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng cũng quyết cho lũ chúng nó  vào bụng cá”. Vua hỏi: “ Nhà ngươi cần bao nhiêu người? Bao nhiêu thuyền bè?”. “ Tâu bệ hạ”- ông đáp-“ chỉ một mình tôi cũng có thể đương được với chúng nó”. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông là Đô thống cầm thủy quân đánh giặc.

                                               (Nguồn: https/ truyện dân gian/ yết kiêu)

Khoanh tròn một phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi ( từ câu 1 đến câu 8-Mỗi đáp án đúng 0,5 điểm)

Câu 1: Đoạn trích trên thuộc thể loại gì?

A. Truyện đồng thoại                           C. Truyện truyền thuyết

B. Truyện cổ tích                                  D. Truyện ngụ ngôn

Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là:

A. Miêu tả                                           C. Biểu cảm

B. Tự sự                                              D. Nghị luận

Câu 3: Câu truyện trong đoạn trích trên kể theo ngôi?

A. Ngôi thứ nhất                               B. Ngôi thứ ba

B. Ngôi thứ hai                                 D. Ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba

Câu 4: Đoạn trích trên đã kể về?

A. Hoàn cảnh xuất hiện và thân thế của Yết Kiêu

B. Chiến công phi thường của Yết Kiêu

C. Công trạng đánh giặc của Yết Kiêu

D. Tài năng xuất chúng của Yết Kiêu

Câu 5: Nghĩa của thành ngữ “ Quyền cao chức trọng” là:

A. Người có của ăn của để và luôn được mọi người kính nể

B. Người có chức sắc cao, quyền  thế lớn, có địa vị cao trong xã hội cũ

C. Người giàu có nhưng không có chức quyền, vị thế, không được lòng người

D. Người có uy tín trước mọi người, được mọi người tôn vinh

Câu 6: Dấu ngoặc kép trong câu: Vua hỏi: “ Nhà ngươi cần bao nhiêu người?, bao nhiêu thuyền bè?” dùng để

A. Đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt

B. Đánh dấu từ ngữ tên tác phẩm

C. Đánh dấu lời đối thoại

D. Đánh dấu lời của người kể chuyện

Câu 7. Đâu là phương án chỉ có cụm động từ?

A. Một trăm chiếc tàu, rồi biến mất, đốt phá chài lưới

B. Một mình tôi, mừng lắm, tài hèn sức yếu

C. Lặn xuống biển, đốt phá chài lưới, gây tang tóc

D. Rất kinh ngạc, cướp của giết người, mừng quá,

Câu 8. Dòng nào nêu chính xác nhất về nhân vật Yết Kiêu được gợi lên qua đoạn trích trên?

A. Yết Kiêu là người có sức khỏe và tài năng hơn người, thích thể hiện năng lực bản thân trước mọi người

B. Yết Kiêu là người giỏi bơi lội, nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên.

C. Yết Kiêu là người không một ai dám đương địch, nhưng không thể hiện bản thân trước mọi người.

D. Yết Kiêu là người có sức khỏe và tài năng hơn người, có tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm.

3
13 tháng 3

1.C

2.B

3.B

4.A

5.C

6.C

7.C

8.D

nHỚ TICK KHI ĐÚNG NHE


13 tháng 3

yếu

10 tháng 3

1. Thể thơ và phương thức biểu đạt:

Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do.

Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm (thể hiện tình cảm yêu thương của con dành cho mẹ).

2. Biện pháp tu từ:

So sánh: "Con yêu mẹ bằng ông trời", "Con yêu mẹ bằng Hà Nội", "Con yêu mẹ bằng trường học", "Con yêu mẹ bằng con dế".

Ẩn dụ: "Các đường như nhện giăng tơ" (ẩn dụ về sự chằng chịt, phức tạp của các con đường).

Điệp ngữ: "Con yêu mẹ bằng"

3. Ý nghĩa của từ "đường":

Từ "đường" trong câu thơ "Các đường như nhện giăng tơ" được dùng với nghĩa chuyển.

Ý nghĩa: Từ "đường" ở đây không chỉ những con đường vật chất mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ về sự phức tạp, rối rắm, chằng chịt như mạng nhện. Nó thể hiện sự khó khăn trong việc tìm kiếm mẹ giữa một không gian rộng lớn, đông đúc.

4. Hình ảnh người con:

Người con trong bài thơ là một người con rất yêu mẹ, luôn tìm cách để diễn tả tình yêu của mình một cách chân thành và đáng yêu.

Người con có trí tưởng tượng phong phú, so sánh tình yêu của mình với những điều lớn lao, quen thuộc xung quanh.

Người con có một tình cảm trong sáng hồn nhiên.

10 tháng 3

5

"Mẹ" - Trần Quốc Minh

"Gánh mẹ" - Nguyễn Duy

"Mẹ và quả" - Tạ hữu Yên

"Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ" (ca dao)

9 tháng 3

Tôi vẫn nhớ như in những ngày tháng hạnh phúc bên con trai mình. Con là niềm hy vọng, là tất cả đối với tôi. Tôi yêu thương, chăm sóc con từng bữa ăn, giấc ngủ, luôn mong con lớn lên khỏe mạnh, bình an. Nhưng rồi, một ngày kia, con trai bé bỏng của tôi giận dỗi, bỏ nhà ra đi.

Hôm đó, con đòi đi chơi nhưng tôi không cho, con bướng bỉnh cãi lại rồi òa khóc. Trong cơn giận dữ, con đã chạy đi, bỏ lại tôi với nỗi lo lắng và đau đớn khôn nguôi. Tôi chờ mãi, chờ mãi… Ngày này qua ngày khác, tôi mong ngóng con trở về, nhưng bóng dáng thân thương ấy vẫn biệt tăm.

Những tháng ngày xa con, tôi đau buồn khôn xiết. Tôi nhớ con từng giây từng phút, nhớ nụ cười hồn nhiên, nhớ bàn tay nhỏ xíu nắm lấy tay tôi. Tôi kiệt sức dần vì nhớ thương, vì chờ đợi… Và rồi, tôi ngã xuống, hóa thành một cái cây xanh tốt, rễ bám sâu vào lòng đất, lá tỏa bóng mát dịu dàng như vòng tay tôi từng ôm con.

Một ngày nọ, con trai tôi trở về. Con gầy gò, mệt mỏi, đôi mắt ánh lên nỗi nhớ thương vô bờ. Con khóc, gọi tôi trong tuyệt vọng. Tôi không thể ôm con như trước nữa, nhưng tôi dồn tất cả yêu thương vào những trái ngọt lành mọc trên cành. Khi con chạm vào, vỏ quả mềm dần, lộ ra lớp thịt trắng thơm mát, ngọt ngào như dòng sữa tôi từng nuôi con.

Từ đó, con hiểu ra tình yêu thương vô bờ bến của tôi. Người ta gọi loài cây ấy là cây vú sữa – như một biểu tượng thiêng liêng của tình mẫu tử.