K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu chuyện về củ khoai tây Một ngày nọ, thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo mỗi lần chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây, viết tên người ấy và ngày tháng lên đó, rồi bỏ nó vào túi nilông. Sau vài ngày, túi của nhiều người trong lớp đã bắt đầu nặng dần. Sau đó,...
Đọc tiếp

Câu chuyện về củ khoai tây Một ngày nọ, thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo mỗi lần chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây, viết tên người ấy và ngày tháng lên đó, rồi bỏ nó vào túi nilông. Sau vài ngày, túi của nhiều người trong lớp đã bắt đầu nặng dần. Sau đó, thầy lại yêu cầu chúng tôi phải luôn đeo cái túi đấy bên mình dù đi bất cứ đâu, ngủ hay làm việc. Sự phiền phức khi phải mang vác một cái túi chứa hàng chục củ khoai tây khiến chúng tôi càng cảm nhận rõ ràng gánh nặng tinh thần mà mình đang chịu đựng. Không những thế, chúng tôi còn phải luôn để tâm đến nó, nhớ đến nó và nhiều khi đặt nó ở những chỗ chẳng tế nhị chút nào. Qua thời gian, khoai tây bắt đầu phân huỷ thành một thứ chất lỏng nhầy nhụa và chúng tôi không muốn mang nó bên mình nữa…  (Hạt giống tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống,  Nhà xuất bản tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2008, Tr23) Câu 1 : Đoạn trích trên được kể theo ngôi kể nào? Câu 2 Trong đoạn trích trên người thầy giáo đã yêu cầu “chúng tôi” (học sinh) những gì? Câu 3 Đọc đoạn trích trên, em hiểu như thế nào về ý nghĩa của câu văn “Sau vài ngày, túi của nhiều người trong lớp đã bắt đầu nặng dần.”? Câu 4 Từ đoan trích trên, theo em tác giả muốn gửi đến người đọc những bài học nào?

0
Con bé phát hiện ra thế giới sống động trong khu vườn nhỏ ấy vào buổi chiều. Cơn mưa từ đâu kéo đến giăng kín trời, đất vườn nồng lên mùi ngái ngái. Con bé đứng bên cửa sổ, luồn tay qua khung cửa gỗ để những giọt mưa nặng trĩu trượt dài trên tay mình trước khi tung tóe trên nền gạch đỏ. Đôi chân của con bé cũng không ngừng nhún nhảy theo điệu nhảy hân hoan của mưa. ...
Đọc tiếp

Con bé phát hiện ra thế giới sống động trong khu vườn nhỏ ấy vào buổi chiều. Cơn mưa từ đâu kéo đến giăng kín trời, đất vườn nồng lên mùi ngái ngái. Con bé đứng bên cửa sổ, luồn tay qua khung cửa gỗ để những giọt mưa nặng trĩu trượt dài trên tay mình trước khi tung tóe trên nền gạch đỏ. Đôi chân của con bé cũng không ngừng nhún nhảy theo điệu nhảy hân hoan của mưa. Mưa ngớt dần. Cánh tay vẫn lì lợm vươn ra để níu lấy mấy giọt mưa cuối cùng. Tức thì, con bé thu tay lại khi nhận ra có thứ gì đó bám nhẹ trên tay mình. Ồ! Con chuồn chuồn kim! Con bé nhìn chuồn chuồn kim mảnh mai không chớp mắt. Màu xanh trên thân nó như bầu trời kỳ diệu hiện ra trước mắt. Chuồn chuồn kim chợt run rẩy, hai cánh ướt nhẹp khép vào nhau. - Bố! Bố! Bố ơi! Con bé vừa chạy đi vừa gọi thét lên, xé tan cả điệu nhạc tí tách yên bình sau cơn mưa. Xòe bàn tay có chuồn chuồn ra trước mắt bố, con bé hốt hoảng: - Con chuồn chuồn bị cảm mất bố ơi! Ông Tấn chau mày, buông tiếng thở dài: - Con đem nó ra ngoài sân rồi mau vào tắm gội đi! Đừng nghịch ngợm nữa! Con bé bỏ lại sau lưng lời nhắc nhở của bố và chạy vụt vào trong bếp. Lần đầu tiên sau cơn mưa, con bé huơ tay mình trên đống than hồng. Chỉ là để ủ ấm cho con chuồn chuồn kim bé nhỏ. Đêm đó, con bé sẵn sàng nhường gối êm cho chuồn chuồn kim nằm im trên đó và thủ thỉ với nó: - Em còn lạnh không? - Nhà em ở đâu? - Em thích chơi ở đâu nè? - Mai chị sẽ dẫn em đi chơi nha. ... Nhưng chính chuồn chuồn kim lại dẫn đường cho con bé đến thế giới kỳ lạ trong khu vườn. Cơn mưa đêm qua đã gột sạch tất cả bụi bặm trên những tàu lá. Những đốm nắng vàng mơ đậu đầy trên thảm cỏ. Và, ở góc vườn, mấy con bọ ngựa màu xanh đang ngủ say trên tàu lá chuối, vài con cánh cam vừa cựa mình, hai con bướm trắng đang khẽ rung đôi cánh mềm mại như sắp sửa bay lên. Rồi, con ếch cốm, con cóc nâu, con dế mèn... Một, hai, ba... bảy... chín, mười. Con bé đứng tròn mắt nhìn cả thế giới đang động đậy quanh mình. Thoắt cái, con bé lại chạy vụt đi. ... Đêm đêm, đàn đom đóm đến phiên gác, thắp đèn lung linh cả góc vườn. Con bé lần theo thứ ánh sáng huyền diệu đó bước vào thế giới của riêng mình. Đó là thế giới thần tiên giữa bóng đêm. Con bé như người khổng lồ đang bước vào xứ sở của những người bạn tý hon. Không! Con bé là người mẹ tí hon của mười đứa con tí hon. Con bé quên cả bữa cơm để chăm sóc con cánh cam bị ốm. Con bé quên cả trưa nắng hè để đi tìm con bướm trắng lạc đường. Con bé quên cả bóng đêm để xem con chuồn chuồn hoa đã ngủ say chưa... (“Thế giới của con” - Dương Hằng - Trích trong “65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi” - NXB Kim Đồng, 2022, tr 509 - 511). Câu 1. Hãy xác định ngôi kể và các nhân vật trong truyện ngắn trên? Câu 2. Hãy nêu các chi tiết truyện quan trọng thể hiện tình cảm của nhân vật “con bé” với các con vật dễ thương trong khu vườn bé nhỏ? Qua đó em thấy cô bé là người như thế nào? Câu 3. Chỉ ra và phân tích tác dụng của phép điệp ngữ trong đoạn trích sau: Con bé quên cả bữa cơm để chăm sóc con cánh cam bị ốm. Con bé quên cả trưa nắng hè để đi tìm con bướm trắng lạc đường. Con bé quên cả bóng đêm để xem con chuồn chuồn hoa đã ngủ say chưa... Câu 4. Nhà văn Ăng-toan đơ Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri, tác giả của Hoàng tử bé, từng khẳng định: “Chỉ có con mắt trẻ em mới có thể cảm nhận một cách thuần khiết vẻ đẹp phong phú và bí ẩn của thế giới”. Em thấy điều đó có đúng với truyện ngắn trên không? Vì sao? Câu 5. Hãy nêu những thông điệp ý nghĩa em rút ra từ văn bản trên? Câu 6: Tìm thán từ có trong văn bản trên?


0
Chiếc lá Chim sâu hỏi chiếc lá: - Lá ơi! Hãy kể chuyện cuộc đời bạn cho tôi nghe đi! - Bình thường lắm, chẳng có gì đáng kể đâu. - Bạn đừng có giấu! Nếu bình thường vậy, sao bông hoa kia lại có vẻ rất biết ơn bạn? - Thật mà! Cuộc đời tôi rất bình thường. Ngày nhỏ, tôi là một búp non. Tôi lớn dần lên thành một chiếc lá và cứ là chiếc lá như thế cho đến bây giờ. - Thật như...
Đọc tiếp

Chiếc lá Chim sâu hỏi chiếc lá: - Lá ơi! Hãy kể chuyện cuộc đời bạn cho tôi nghe đi! - Bình thường lắm, chẳng có gì đáng kể đâu. - Bạn đừng có giấu! Nếu bình thường vậy, sao bông hoa kia lại có vẻ rất biết ơn bạn? - Thật mà! Cuộc đời tôi rất bình thường. Ngày nhỏ, tôi là một búp non. Tôi lớn dần lên thành một chiếc lá và cứ là chiếc lá như thế cho đến bây giờ. - Thật như thế sao? Đã có lần nào bạn biến thành hoa, thành quả, thành một ngôi sao, thành vầng mặt trời đem lại niềm vui cho mọi người như trong các câu chuyện cổ tích mà bác gió thường rì rầm kể suốt ngày đêm chưa? - Chưa! Chưa một lần nào tôi biến thành một thứ gì khác tôi cả. Suốt đời tôi chỉ là một chiếc lá nhỏ nhoi bình thường. - Thế thì chán thật! Bông hoa kia đã làm tôi thất vọng. Hoa ơi, bạn chỉ khéo bịa chuyện. - Tôi không bịa chút nào đâu. Mãi mãi tôi kính trọng những chiếc lá bình thường như thế. Chính nhờ họ mới có chúng tôi - những hoa, những quả, những niềm vui mà bạn vừa nói đến. (Theo Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Trần Hoài Dương, NXB Kim Đồng, năm 2019) Câu 1. Xác định chủ dề của câu chuyện? Câu 2. Theo câu chuyện, vì sao bông hoa lại kính trọng những chiếc lá? Câu 3.Theo em chiếc lá trong câu chuyện là hình ảnh của những người như thế nào trong cuộc sống của con người? Câu 4.Tôi không bịa chút nào đâu. Mãi mãi tôi kính trọng những chiếc lá bình thường như thế. Chính nhờ họ mới có chúng tôi - những hoa, những quả, những niềm vui mà bạn vừa nói đến. Từ câu trả lời của hoa, em rút ra cho mình những bài học gì? Câu 5: Tìm thán từ có trong văn bản trên?

0
31 tháng 1

bài thơ nào v


II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích trong truyện ngắn “Trở về” của Thạch Lam.     [Lược một đoạn: Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính tên Tâm, được người mẹ tần tảo sớm khuya nuôi dạy nên người. Tuy nhiên, khi được ra thành phố học tập và làm việc, trong suốt sáu năm, anh chỉ gửi tiền hàng tháng về cho mẹ, không báo tin mình đã lấy...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)

Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích trong truyện ngắn “Trở về” của Thạch Lam.

    [Lược một đoạn: Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính tên Tâm, được người mẹ tần tảo sớm khuya nuôi dạy nên người. Tuy nhiên, khi được ra thành phố học tập và làm việc, trong suốt sáu năm, anh chỉ gửi tiền hàng tháng về cho mẹ, không báo tin mình đã lấy vợ và tuyệt nhiên không một lời hỏi thăm, không để tâm đến những bức thư mẹ gửi từ quê ra. Khi bất đắc dĩ có việc phải về nhà, anh mới có dịp gặp lại mẹ…].

     Khi vào đến sân nhà, Tâm thấy bốn bề yên lặng, không có bóng người. Cái nhà cũ vẫn như trước, không thay đổi, chỉ có sụp thấp hơn một chút và mái gianh xơ xác hơn. Tâm bước qua sân rồi đẩy cái liếp bước vào. Vẫn cái gian nhà mà chàng đã sống từ thuở nhỏ. Tâm cất tiếng gọi. Chàng nghe thấy tiếng guốc đi, vẫn cái tiếng guốc ấy, thong thả và chậm hơn trước, rồi mẹ Tâm bước vào. Bà cụ đã già đi nhiều, nhưng vẫn mặc cái bộ áo cũ kỹ như mấy năm về trước. Khi nhận ra con, bà cụ ứa nước mắt:

     – Con đã về đấy ư?

    – Vâng, chính tôi đây, bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? – Câu nói như khó khăn mới ra khỏi miệng được.

     – Bà ở đây một mình thôi à?

     Bà cụ cảm động đến nỗi không nói được. Một lát bà mới ấp úng:

     – Vẫn có con Trinh nó ở đây với tôi.

     – Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác Cả không?

     Tâm nhớ mang máng cái cô con gái bé nhỏ ngày trước vẫn hay chơi với chàng.

     – Tôi tưởng cô ta đi lấy chồng rồi.

     Bà cụ ngồi xuống chiếc phản gỗ, đáp:

    – Đã lấy ai đâu. Con bé dở hơi chết đi ấy mà. Cũng đã có mấy đám hỏi, mà nó không chịu lấy.

     Bà cụ yên lặng một lát.

     – Thỉnh thoảng nó vẫn nhắc đến cậu đấy.

     Tâm nhún vai, không trả lời. Tuy ngoài trời nắng, mà Tâm thấy bên trong cái ẩm thấp hình như ở khắp tường lan xuống, thấm vào người. Bà cụ âu yếm nhìn con, săn sóc hỏi: 

     – Năm ngoái bác Cả lên tỉnh về bảo cậu ốm. Tôi lo quá, nhưng quê mùa chả biết tỉnh thế nào mà đi, thành ra không dám lên thăm. Bây giờ cậu đã khỏe hẳn chưa?

     Tâm nhìn ra ngoài đáp:

     – Như thường rồi.

     Rồi muốn nói sang chuyện khác, Tâm hỏi:

     – Ở làng có việc gì lạ không?

     Bà cụ trả lời:

     – Chả việc gì lạ sất, ngày nào cũng như ngày nào, nhưng được có con Trinh sang đây với tôi nên cũng đỡ buồn. Nó thường vẫn làm giúp tôi nhiều công việc, con bé thế mà đảm đang đáo để, đã chịu khó lại hay làm. [….]

     Tâm lơ đãng nghe lời mẹ kể những công việc và cách làm ăn ngày một khó khăn ở làng. Chàng dửng dưng không để ý đến. Con bác Cả Sinh lấy vợ, hay chú bác ta chết thì có can hệ gì đến chàng? Cái đời ở thôn quê với đời của chàng, chắc chắn, giàu sang, không có liên lạc gì với nhau cả. Câu chuyện nhạt dần. Những câu hỏi và sự săn sóc của bà cụ về công việc của chàng chỉ làm cho Tâm khó chịu. Chàng trả lời qua loa lấy lệ. Nghĩ đến vợ đợi, Tâm vội vàng đứng dậy. Bà cụ nhìn theo khẩn khoản:

      – Cậu hãy ở đây ăn cơm đã. Đến chiều hãy ra.

     – Thôi, bà để tôi về. Độ này bận công việc lắm.

      Tâm lại an ủi:

     – Nhưng thế nào có dịp tôi cũng về.

     Rồi Tâm mở ví lấy ra bốn tấm giấy bạc 5 đồng đưa cho mẹ. Tâm hơi kiêu ngạo, trước mặt cô Trinh, chàng nói:

     – Đúng hai chục, bà cầm lấy mà tiêu, có thiếu tôi lại gửi về cho.

    Bà cụ run run đỡ lấy gói bạc, rơm rớm nước mắt. Tâm làm như không thấy gì, vội vàng bước ra. [….]

     (Trích Trở về, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2004, tr.24-27)

* Chú thích: Thạch Lam là cây bút xuất sắc trong nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh năm 1910 tại Hà Nội, tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi tên là Nguyễn Tường Lân, bút danh Thạch Lam. Tác phẩm hướng về đời sống bình dị, tình cảm nghiêng về người nghèo, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ. Lối viết trữ tình hướng nội, khơi sâu vào đời sống bên trong với những rung động và cảm giác tế vi.

2
7 giờ trước (23:48)

Truyện ngắn "Trở về" của Thạch Lam không chỉ ghi dấu ấn bởi phong cách viết giàu chất trữ tình mà còn chứa đựng bài học nhân văn sâu sắc. Đoạn trích tràn đầy cảm xúc, tập trung miêu tả cuộc trở về thăm mẹ của nhân vật Tâm - một câu chuyện thấm đẫm tình cảm gia đình nhưng lại chất chứa những khoảng cách và vô cảm.

Ngay từ đầu đoạn trích, tác giả đã khéo léo xây dựng bối cảnh làng quê nghèo nàn, với căn nhà cũ kĩ, mái gianh xơ xác, như một sự phản chiếu chân thực về cuộc sống của người mẹ già. Bà là hiện thân của sự hy sinh thầm lặng, suốt đời tần tảo vì con, nhưng đổi lại, bà chỉ nhận được sự xa cách, lạnh lùng từ người con trai. Cuộc gặp gỡ đầy xúc động khi “bà cụ ứa nước mắt” nhận ra con trai, càng khiến người đọc chạnh lòng bởi niềm vui của bà không được trọn vẹn. Thái độ của Tâm - cộc lốc, hời hợt - dường như vô tình giẫm lên lòng yêu thương chân thành của người mẹ già.

Đoạn trích nhấn mạnh vào sự đối lập trong cảm xúc của hai nhân vật chính: bà mẹ và Tâm. Người mẹ, dù đã già nua và yếu đuối, vẫn luôn dành sự ân cần chăm sóc, lo lắng cho con. Những câu hỏi như “Năm ngoái bác Cả lên tỉnh bảo cậu ốm, tôi lo quá…” là biểu hiện rõ nét của tình mẫu tử ấm áp. Trái ngược với đó, Tâm chỉ trả lời qua loa, lãnh đạm và không mảy may để tâm đến những gì mẹ nói. Sự thờ ơ của anh là minh chứng cho những giá trị bị mai một nơi con người sống trong nhịp sống vội vã của thành phố.

Hình ảnh nhân vật Tâm còn được khắc họa rõ hơn qua hành động vội vã rời đi, mang theo vẻ tự mãn khi để lại số tiền cho mẹ. Tiền bạc, dẫu lớn lao, không thể bù đắp cho tình cảm đã bị rạn nứt, càng khiến nỗi cô đơn của bà mẹ thêm rõ ràng. Chi tiết “bà cụ run run đỡ lấy gói bạc, rơm rớm nước mắt” đã nói lên tất cả sự đau lòng và bất lực của một người mẹ đối với đứa con trai xa cách cả về tình cảm lẫn tâm hồn.

Bút pháp trữ tình của Thạch Lam trong đoạn trích này được thể hiện qua những hình ảnh tinh tế, giàu sức gợi. Tác giả không cần dùng những lời lẽ hoa mỹ, mà chỉ qua những chi tiết giản dị như tiếng guốc thong thả hay sự ẩm thấp của căn nhà, đã dựng lên một bức tranh chân thực về cuộc sống khó khăn, cô quạnh của bà mẹ già. Đồng thời, cảm giác lạnh lẽo thấm vào người nhân vật Tâm cũng là một ẩn dụ, gợi sự lạnh nhạt, vô cảm trong mối quan hệ mẹ con.

Qua đoạn trích, Thạch Lam gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc: Tình yêu thương gia đình là giá trị thiêng liêng, không thể thay thế bằng tiền bạc hay vật chất. Những người con, dù đi xa đến đâu, cũng không nên quên đi nguồn cội, nơi có những bàn tay luôn chờ đợi và trái tim luôn mong nhớ. Tác phẩm khơi dậy trong lòng người đọc sự đồng cảm với bà mẹ già và nhắc nhở về trách nhiệm của con người.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM) Đọc văn bản sau:           HƠI ẤM Ổ RƠM          (Nguyễn Duy)   Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm   Bà mẹ đón tôi trong gió đêm:   – Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ   Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ     Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm.   Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm,   Tôi thao thức trong hương mật ong của...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (6 ĐIỂM)

Đọc văn bản sau:    

      HƠI ẤM Ổ RƠM

 

       (Nguyễn Duy)

 

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm

 

Bà mẹ đón tôi trong gió đêm:

 

– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ

 

Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ

 

 

Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm.

 

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm,

 

Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng

 

Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

 

 

Của những cọng rơm xơ xác gầy gò. 

 

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no

 

Riêng cái ấm nồng nàn như lửa

 

Cái mộc mạc lên hương của lúa

 

Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.

 

(In trong tập Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973)

 

* Chú thích:

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Bài thơ thể hiện cảm xúc trước một cuộc gặp gỡ tình cờ đầy ấm áp. Cho biết ai là người bộc lộ cảm xúc và đó là cuộc gặp gỡ giữa ai với ai.

Câu 3. Chỉ ra biện pháp tu từ trong hai dòng thơ sau và nêu tác dụng của nó.

             Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

             Của những cọng rơm xơ xác gầy gò.

Câu 4. Nhận xét về hình ảnh “ổ rơm” xuất hiện trong bài thơ.

Câu 5. Xác định cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”.

Câu 6. Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ.

1

cô ơi làm hộ e cái đề trên


II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)  Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn “Bà lái đò” của nhà văn Nguyễn Công Hoan.  Bà lái đò      Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoài bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông,...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (4 ĐIỂM)

 Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn “Bà lái đò” của nhà văn Nguyễn Công Hoan.

 Bà lái đò

     Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoài bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông, đang vót tre bằng con dao nhọn. Thấy tiếng động, người ấy quay nhìn chúng tôi và có ý hớt hải, thu xếp các thứ rồi một tay cầm dao, một tay dắt con, nhảy xuống thuyền. Bà ta lay nhổ vội vàng cái sào cắm chặt vào bùn, rồi đẩy mạnh chiếc thuyền nan. Con thuyền chổng mũi lên trời, vỗ sóng đành đạch, nhảy chồm ra xa. Nhưng không hiểu sao tự nhiên nó quay lại ghé vào bờ. Đồng chí Việt Nam muốn chừng hiểu ý, nói:

    – Bà cho chúng tôi sang sông với chứ. Sáu người chở không nặng lắm đâu.

     – Vâng, cháu ghé vào chỗ khô để các ông khỏi lấm giầy.

     Chúng tôi xuống thuyền, ngồi thăng bằng thì thuyền quay mũi. Chúng tôi duỗi chân cho đỡ mỏi, rồi lấy thuốc lá ra hút. Chúng tôi nói chuyện với nhau về các khúc sông bên châu Âu. Gió hiu hiu lướt trên da chúng tôi mát rượi. Sóng phản ánh vàng, mặt nước chói như gương. Quá nửa bên này, yên lặng, thuyền tới chỗ chảy xiết. Chúng tôi phải vịn vào nhau để ngồi cho vững. Bỗng tự nhiên con thuyền chòng chành, đảo lộn đi, hất thằng bé con xuống nước. Đồng thời chúng tôi nghe tiếng bùng bục: người đàn bà tay cầm con dao nhọn đang xỉa đâm nát cả phía lái. Nước ùa vào và trong khoảnh khắc, cả chúng tôi băng ra giữa dòng. Trước thế nguy, chúng tôi giữ bình tĩnh.

     – Anh em! Phải cứu lấy đàn bà và trẻ con!

     Lệnh đưa ra, chúng tôi hết sức. Chúng tôi chống nhau với sóng, với xoáy, để đuổi kịp những cái đầu lúc nhô lên, lúc thụt xuống, theo đà nước đỏ ngầu. Anh Bảo – tên Việt Nam của đồng chí Đức – đã nhanh tay ôm được thằng bé và cõng nó vào bờ. Còn chúng tôi đuổi theo người mẹ. Nhưng hễ nắm được cánh tay, thì người đàn bà quái gở ấy lại giãy giụa, hình như muốn chạy trốn. Nhưng không thể. Chúng tôi phải cứu. Và sau hết, bà ta cũng được dìu vào bờ. Chúng tôi đặt hai mẹ con nằm trên cỏ, xúm lại chữa. Cả hai người đã nôn ra được nhiều nước và đã thở được đều.

     Chừng nửa giờ sau, bà lái đò mới mở đôi mắt mệt nhọc nhìn chúng tôi, thở dài, nhắm mắt lại. Biết rằng bà ta đã tỉnh, đồng chí Việt Nam hỏi:

     – Tại làm sao bà nỡ xử với chúng tôi như thế?

     – Họ là người Pháp, chúng tôi không chở cho giặc!

     Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam mỉm cười:

     – Các đồng chí này không phải là người Pháp mà là người châu Âu, giúp Chính phủ ta đánh Pháp đấy bà!

     Bà lái đò uể oải nhìn chúng tôi một lượt, rồi không hiểu bà ta có tin hay không, lại thấy bà ta nhắm mắt như trước.

     – Thế nếu các đồng chí này là người Pháp, sao bà còn để xuống thuyền?

     – Tôi cũng tính chạy, nhưng sau sực nghĩ ra là các ông có súng, không để các ông xuống cũng chết. Đằng nào cũng chết, thà tôi chết mà giết được tất cả có hơn không?

     Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam lắc đầu hồi hỏi:

     – Nhà bà ở đâu?

     – Tôi không có nhà, chỉ có chiếc thuyền ấy.

     – Thế gia đình bà có những ai? Chúng tôi muốn vào thăm.

     – Tôi góa, chỉ có một thằng bé.

     Bà mở mắt ra nhìn con, rồi quờ tay sờ trán và ngực nó.

(Trích Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan)

* Chú thích: Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977), sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế ở Hưng Yên. Ông là một nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học. Một số tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn gồm Kép Tư Bền (1935), Đào kép mới (1937)…; Tiểu thuyết gồm Lá ngọc cành vàng (1935), Ông chủ (1935), Bước đường cùng (1938)… Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

0
21 tháng 1

Đoạn thơ gợi lên một thông điệp sâu sắc về giá trị của thời gian và tình cảm gia đình. Lời thơ như lời nhắn nhủ, khơi dậy ý thức trân trọng từng khoảnh khắc bên người thân, đặc biệt là mẹ - biểu tượng của tình yêu vô điều kiện. Câu thơ “Gọi cho mẹ, khi thu còn chưa hết” như nhắc nhở chúng ta đừng để những cơ hội yêu thương vuột qua. Cuộc đời vốn dĩ “rất mau qua,” mùa thu của thời gian chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, và tình cảm gia đình cần được vun đắp trước khi những điều quý giá trở thành quá khứ. Hình ảnh “Tuyết ngập trời... mà chả thấy ai thưa” là biểu tượng của sự mất mát và nuối tiếc, khi ta nhận ra đã quá muộn để bày tỏ yêu thương. Thông qua đó, đoạn thơ không chỉ khắc họa sự vô thường của cuộc đời mà còn nhấn mạnh sự cần thiết của việc sống chậm lại, yêu thương nhiều hơn trong hiện tại. Nó thức tỉnh mỗi người, đặc biệt trong guồng quay vội vã của cuộc sống, hãy dành thời gian cho những giá trị cốt lõi - gia đình và những người ta yêu quyys.