K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 1

câu1 : bài làm

Hoàng Cầm trong tác phẩm hiện lên là một hình tượng nghệ sĩ tài hoa, đa cảm và giàu lòng yêu nước. Sự tài hoa của ông được thể hiện qua ngòi bút tinh tế, sắc sảo, thổi hồn vào từng câu chữ, khắc họa chân thực vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Tình yêu quê hương đất nước trong ông không chỉ là những lời tuyên ngôn hùng hồn mà còn là sự thấm đẫm trong từng bài thơ, từng câu văn, thể hiện qua nỗi nhớ da diết, sự trăn trở trước số phận đất nước. Đồng thời, Hoàng Cầm cũng là người mang trong mình nỗi buồn sâu lắng, sự cô đơn của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm trước những biến động của lịch sử và đời sống. Sự cô đơn ấy không phải là sự gục ngã mà là một sức mạnh nội tại, thúc đẩy ông sáng tạo, tìm kiếm những giá trị đích thực của cuộc sống. Hình tượng Hoàng Cầm không chỉ là một nhà văn, nhà thơ tài năng mà còn là một con người giàu tình cảm, sống trọn vẹn với đam mê và lý tưởng của mình, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Sự kết hợp giữa tài năng nghệ thuật, lòng yêu nước và nỗi buồn sâu lắng đã tạo nên một hình tượng Hoàng Cầm đầy sức hút và đáng suy ngẫm.

câu 2: bài làm

Cuộc sống hiện đại, với nhịp độ phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, đặt ra những thách thức to lớn nhưng cũng mở ra vô vàn cơ hội. Trong bối cảnh đó, sự sáng tạo không chỉ là một phẩm chất cá nhân đáng quý mà còn là yếu tố then chốt quyết định sự thành công và phát triển bền vững của cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Thứ nhất, sự sáng tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các quốc gia mà còn giữa các doanh nghiệp, các cá nhân. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới sản phẩm, dịch vụ, tìm kiếm những mô hình kinh doanh mới, hiệu quả hơn. Sự sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm dẫn đến những đột phá công nghệ, những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, tạo ra lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những “kỳ tích” của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Apple, Google hay Samsung chính là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của sự sáng tạo trong kinh doanh. Thứ hai, sự sáng tạo góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nan giải. Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, ## Ý nghĩa của sự sáng tạo trong cuộc sống hiện đại Cuộc sống hiện đại, với nhịp độ phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, đặt ra những thách thức to lớn nhưng cũng mở ra vô vàn cơ hội. Trong bối cảnh đó, sự sáng tạo không chỉ là một phẩm chất cá nhân đáng quý mà còn là yếu tố then chốt quyết định sự thành công và phát triển bền vững của cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội. Thứ nhất, sự sáng tạo là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các quốc gia mà còn giữa các doanh nghiệp, các cá nhân. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới sản phẩm, dịch vụ, tìm kiếm những mô hình kinh doanh mới, hiệu quả hơn. Sự sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm dẫn đến những đột phá công nghệ, những sản phẩm và dịch vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, tạo ra lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những “kỳ tích” của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Apple, Google hay Samsung chính là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của sự sáng tạo trong kinh doanh. Thứ hai, sự sáng tạo góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nan giải. Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội…, sự sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm các giải pháp bền vững. Những ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ xanh, nông nghiệp thông minh… giúp con người giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, hướng tới một tương lai phát triển bền vững. Sự sáng tạo cũng đóng góp vào việc xây dựng các mô hình xã hội công bằng, hiệu quả hơn, giải quyết các vấn đề về y tế, giáo dục, an sinh xã hội… Ví dụ như việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục đã mở ra cơ hội học tập cho nhiều người hơn, bất kể địa lý hay điều kiện kinh tế. Thứ ba, sự sáng tạo làm giàu thêm đời sống tinh thần của con người. Trong xã hội hiện đại, với áp lực công việc và cuộc sống ngày càng lớn, con người cần tìm kiếm những giá trị tinh thần để cân bằng cuộc sống. Sự sáng tạo trong nghệ thuật, văn học, âm nhạc… mang đến những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, làm phong phú đời sống tinh thần, khơi dậy cảm xúc và thúc đẩy sự phát triển văn hóa. Sự sáng tạo cũng giúp con người giải trí, thư giãn, tìm kiếm niềm vui trong cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng sống. Những tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, văn học xuất sắc không chỉ đơn thuần là sản phẩm giải trí mà còn là những bài học quý giá về cuộc sống, tình người, khơi gợi suy nghĩ và cảm xúc của người xem, người nghe. Tuy nhiên, sự sáng tạo không phải tự nhiên mà có. Nó cần được nuôi dưỡng, rèn luyện thông qua giáo dục, môi trường sống và sự khuyến khích từ xã hội. Việc giáo dục cần hướng đến phát triển tư duy sáng tạo, khuyến khích học sinh, sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá, không sợ sai lầm. Xã hội cần tạo ra môi trường cởi mở, tôn trọng sự khác biệt, khuyến khích tinh thần đổi mới và chấp nhận rủi ro. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự sáng tạo. Tóm lại, sự sáng tạo là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững trong cuộc sống hiện đại. Nó không chỉ tạo ra giá trị kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội mà còn làm giàu thêm đời sống tinh thần của con người. Để phát huy tối đa tiềm năng của sự sáng tạo, cần có sự nỗ lực từ cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội trong việc nuôi dưỡng, khuyến khích và bảo vệ sự sáng tạo. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng một xã hội thịnh vượng, văn minh và hạnh phúc.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Chuyện ông Hoàng Cầm Minh Chuyên         Có một sự kiện đã theo hàng triệu người lính ra trận trong suốt những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với tất cả các đơn vị quân đội. Đó là sự kiện bếp Hoàng Cầm.         Cái bếp mang tên người sinh ra nó là một anh bộ đội tên là Hoàng Cầm, quê ở tỉnh...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Chuyện ông Hoàng Cầm

Minh Chuyên

        Có một sự kiện đã theo hàng triệu người lính ra trận trong suốt những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với tất cả các đơn vị quân đội. Đó là sự kiện bếp Hoàng Cầm.

        Cái bếp mang tên người sinh ra nó là một anh bộ đội tên là Hoàng Cầm, quê ở tỉnh Nam Định, nguyên chiến sĩ nuôi quân Sư đoàn 308, Đại đoàn Quân Tiên phong. Cái bếp kì diệu ấy đã cùng các đơn vị bộ đội tham gia chiến dịch Biên giới, Hoà Bình, Điện Biên Phủ và sau đó tiếp tục cùng các đơn vị thời chống Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Bếp Hoàng Cầm là một yếu tố tạo nên sự bất ngờ, bí mật cho bộ đội chiến thắng và biết bao người lính nhờ nó mà không phải đổ máu, hi sinh. Thời gian và năm tháng qua đi, nhiều người đã quên tên anh bộ đội Hoàng Cầm mà chỉ còn nhớ tên cái bếp Hoàng Cầm của anh. Cái bếp đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người […].

        Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên ở làng Cát Nội, xã Trực Đại, tỉnh Nam Định. Sau này gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay là thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 2 năm 1946, anh thanh niên Hoàng Cầm tình nguyện lên đường vào bộ đội chống Pháp. Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ vì thế, Hoàng Cầm được cử làm chiến sĩ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền phương Sư đoàn 308. Là anh nuôi, Hoàng Cầm luôn tận tâm, tận lực với công việc nấu ăn phục vụ bộ đội nhiều chiến dịch. Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hi sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hi sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn. Khói lửa từ những cái bếp nuôi quân bốc lên, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai hoạ. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh. Bộ đội ăn cơm sống, khê, nguội lạnh, không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm nhớ một lần, đồng chí thủ trưởng nhắc tổ quân nuôi quân:

        – Các đồng chí cố gắng xem có cách nào khắc phục cái bếp. Để anh em thương vong, chết chóc ở ngay nơi đóng quân và nơi ăn uống khổ cực là mình có tội với nhân dân, với bộ đội đấy.

        Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội. Hoàng Cầm trăn trở ngày đêm suy nghĩ. Có buổi anh ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán cây rừng quan sát anh em nhóm bếp và đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhìn làn khói xanh cuồn cuộn bay lên.

        Trong bản tự thuật quá trình mày mò, sáng chế kiểu bếp mới, Hoàng Cầm kể: “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám lợn ở vùng Nam Định quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một lỗ thoát hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung, ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào để bếp đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau, tôi mới nghĩ ra cảnh mình từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống đất, chất rạ đốt, hầu như khói hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng cải tiến thành bếp nuôi quân kiểu mới sẽ hạn chế được khói và lửa bốc cao.”.

        Từ cơ sở đó, Hoàng Cầm miệt mài ngày đêm nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp. Ngày ngày anh tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng, đeo xoong nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Không biết có thành công hay thất bại nhưng sợ anh em tốn sức, vất vả, anh giấu kín mọi người. Anh đào hàng chục cái bếp khác nhau, có nhiều nhánh dẫn khói như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói ra vẫn phảng phất bay lên. Lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi, trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.

        Trong bản tự thuật, Hoàng Cầm viết: “Lần này, bếp có nhiều ưu điểm, đã giấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống vẫn là lảng bảng bay lên ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp trời mưa, khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi, sướng quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối rừng chẻ ra lát lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh dẫn khói. Quả nhiên, khi đun khói cứ là là, toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa.”.

        [...] Cái bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày.

        Tháng 10 năm 1952, đơn vị quyết định cái bếp được mang tên người chiến sĩ đã sáng tạo ra nó: bếp Hoàng Cầm. Anh chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3. Và năm đó, Hoàng Cầm được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Bếp Hoàng Cầm được phổ biến áp dụng trong toàn quân.

        Từ đó, cái bếp theo bộ đội hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bếp Hoàng Cầm tiếp tục là bạn đồng hành của bộ đội nuôi quân suốt những năm chống Mỹ và nó đã đi vào lời bài hát làm cả triệu anh bộ đội xao xuyến khôn nguôi: “Nổi lửa lên em, đánh Mỹ đêm ngày… Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước. Hơi bếp Hoàng Cầm sưởi ấm khắp nơi nơi…” […].

        Dẫu mai này, có thể người ta lại quên cái tên người chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm. Nhưng cái bếp của ông, cái bếp đã đi vào lịch sử hay cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc có thể sẽ trở thành cái bếp huyền thoại truyền mãi đến muôn đời.

Hà Nội – 2003

(Người lang thang không cô đơn, truyện kí, NXB Văn học, Hà Nội, 2018, trang 152 – 163)

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Câu 2. Văn bản kể về sự việc chính nào?

Câu 3. Phát biểu cảm hứng chủ đạo được tác giả thể hiện trong văn bản.

Câu 4. Nội dung của văn bản này là gì?

Câu 5. Em thấy ấn tượng với chi tiết nào trong văn bản? Vì sao? 

2
15 tháng 1

Quê ở tỉnh ko biết.


15 tháng 1

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là thuyết minh, kết hợp với tự sự và biểu cảm. Tác giả thuyết minh về sự ra đời và ý nghĩa của bếp Hoàng Cầm, đồng thời kể lại quá trình sáng chế ra loại bếp này và bày tỏ sự ngưỡng mộ, trân trọng đối với người lính Hoàng Cầm. Câu 2: Văn bản kể về sự việc chính là qCâu 1:** Phương thức biểu đạt chính của văn bản là thuyết minh, kết hợp với tự sự và biểu cảm. Tác giả thuyết minh về sự ra đời và ý nghĩa của bếp Hoàng Cầm, đồng thời kể lại quá trình sáng chế ra loại bếp này và bày tỏ sự ngưỡng mộ, trân trọng đối với người lính Hoàng Cầm. Câu 2: Văn bản kể về sự việc chính là quá trình sáng chế ra bếp Hoàng Cầm của anh bộ đội Hoàng Cầm và ý nghĩa to lớn của loại bếp này đối với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Câu 3: Cảm hứng chủ đạo được tác giả thể hiện trong văn bản là sự ngưỡng mộ, trân trọng và ca ngợi lòng yêu nước, sự sáng tạo, cần cù, thông minh và tinh thần trách nhiệm cao cả của người lính Hoàng Cầm. Tác giả muốn tôn vinh những đóng góp thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng của những người lính hậu phương, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Câu 4: Nội dung của văn bản là giới thiệu về bếp Hoàng Cầm, một sáng chế của anh bộ đội Hoàng Cầm trong thời chiến, đã góp phần to lớn vào việc đảm bảo sức khỏe, an toàn cho bộ đội và thể hiện ý chí quật cường, trí thông minh của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Văn bản cũng đề cao tinh thần yêu nước, sự sáng tạo và lòng dũng cảm của người lính Hoàng Cầm, một anh hùng thầm lặng. Câu 5: Tôi ấn tượng nhất với chi tiết Hoàng Cầm miệt mài, kiên trì thử nghiệm hàng chục lần để hoàn thiện bếp. Anh đã dành nhiều thời gian, công sức, thậm chí cả sự hy sinh cá nhân (giấu kín việc làm của mình) để sáng tạo ra một loại bếp phục vụ bộ đội, đảm bảo sức khỏe cho đồng đội trong điều kiện chiến tranh khắc nghiệt. Chi tiết này cho thấy sự quyết tâm, lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm cao cả của anh, vượt lên trên cả những khó khăn thử thách. Hành động này không chỉ thể hiện sự thông minh, sáng tạo mà còn là biểu hiện của tình đồng đội, lòng yêu thương sâu sắc đối với đồng bào, chiến sĩ.

(4 điểm) Đọc văn bản vả trả lời câu hỏi:           Những giọt lệ Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? Bao giờ tôi hết được yêu vì(1), Bao giờ mặt nhựt tan thành máu, Và khối lòng tôi cứng tợ si?   Họ đã xa rồi khôn níu lại, Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa(2)… Người đi, một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.   Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đem bỏ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản vả trả lời câu hỏi: 

         Những giọt lệ

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?

Bao giờ tôi hết được yêu vì(1),

Bao giờ mặt nhựt tan thành máu,

Và khối lòng tôi cứng tợ si?

 

Họ đã xa rồi khôn níu lại,

Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa(2)

Người đi, một nửa hồn tôi mất,

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

 

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem bỏ tôi dưới trời sâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết,

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

                                         (Hàn Mặc Tử)

* Đôi nét về tác giả:

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê quán ở Quảng Bình. Cuộc đời chàng phải chịu nhiều đắng cay, đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần vì căn bệnh phong quái ác. Thơ chàng thể hiện một thế giới nội tâm phức tạp, với những xúc cảm vừa mãnh liệt, vừa đau đớn, tuyệt vọng, cô đơn về tình yêu và về cuộc sống.

* Chú thích:

– Yêu vì: (Từ cũ) yêu quý và vì nể.

– Chưa bưa: (Tiếng miền Trung) chưa chán.

Câu 1. Xác định những phương thức biểu đạt trong bài thơ trên.

Câu 2. Đề tài trong bài thơ là gì? 

Câu 3. Chỉ ra và nêu cảm nhận của em về một hình ảnh thơ mang tính tượng trưng trong bài thơ.

Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ cuối.

Câu 5. Nhận xét về cấu tứ của bài thơ.

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:  Giữa người với người       Cuộc tình của em mẻ một miếng sau bữa bồ khoe ca trực tối qua có thằng trộm trâu bị đánh suýt chết, ngay lúc cấp cứu bồ kịp lấy điện thoại chụp cái ảnh thằng nhỏ nằm rúm ró tải ngay lên mạng xã hội, thiên hạ ào vô thích quá trời. Nhỏ em nghĩ bồ quên vai trò mình là y sĩ còn thằng nhỏ là bệnh nhân,...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

Giữa người với người

      Cuộc tình của em mẻ một miếng sau bữa bồ khoe ca trực tối qua có thằng trộm trâu bị đánh suýt chết, ngay lúc cấp cứu bồ kịp lấy điện thoại chụp cái ảnh thằng nhỏ nằm rúm ró tải ngay lên mạng xã hội, thiên hạ ào vô thích quá trời. Nhỏ em nghĩ bồ quên vai trò mình là y sĩ còn thằng nhỏ là bệnh nhân, nhưng sao có thể quên kẻ đang chịu đau đớn kia là một con người?

      Chuyện đã cũ rồi, tình cũng thành tình cũ, nhưng em nói không bao giờ ghé lại ngôi nhà trên mạng của bồ, giờ cũng là một địa chỉ đông khách thăm. Em sợ lại gặp trên ấy gương mặt biến dạng của người phụ nữ bị chồng thiêu, bàn tay rụng đốt của một em bé bị bạo hành. Những con người buộc phải đến khoa cấp cứu trong tình trạng bên bờ sống chết, chỉ với điện thoại thông minh buộc vào mạng xã hội là thành một cần câu, anh y sĩ ung dung biến ca trực của mình thành buổi câu tín nóng hổi. "Và bằng mồi người", em nói, không cười.

      Hai chữ "mồi người" thịnh hành khá lâu, lúc những trang báo lá cải bắt đầu câu người đọc bằng những tình duyên, đường cong, rãnh sâu của diễn viên người mẫu. Lần hồi cũng lạt miệng, mồi câu không còn móc vào giới phù hoa. Đầu năm những người bán bắp luộc chết giấc với tin nồi nước luộc có pin đèn, cuối năm giới hủ tiếu gõ sập tiệm với tin nước dùng chuột cống. Mẹ em nấu chè dừa non bán, hổm rày lo rầu sợ mở báo thấy đăng tin chè bưởi có thuốc rầy, chẳng hạn. Tai bay vạ gió, biết đâu chỉ vì một người bán chè nào đó ở cổng trường thấy một cậu học trò chửi thề ghê quá, bảo ban nó mấy câu, ai ngờ nó để bụng về tung lên mạng cái câu ăn chè bưởi ngộ độc thuốc trừ sâu. Những trang báo đói ngấu chộp lấy, năm giây sau cả nước biết tin, tẩy chay món chè của bà già.

      Em hỏi chị bạ gì cũng đọc, có chuyện nào truyền thuyết nào về cái sự người không ngó thấy người, kiểu như truyền thuyết Babel giải thích rằng bởi vì chúa trời trừng phạt nên chúng ta không nghe và hiểu nhau. Đâu phải tự dưng mà lịch sử thế giới triền miên những cuộc chiến vì tôn giáo, sắc tộc, màu da, nhìn nhau chi để nhận diện giặc hay ta. Điện thoại thương hiệu Mỹ, Hàn, hoàn toàn không mắc mớ gì tới chén cơm của mình đâu mà vẫn tung tóe những lời nhiếc mắng trên diễn đàn công nghệ. Một vụ cướp tiền giữa ban ngày, người ta chỉ thấy giấy bạc bay mà không thấy nạn nhân. Hôi bia cũng vì chỉ thấy bia lăn lóc ra đường.

      “Tụi mình cứ như bị lời nguyền.”, em nói. Biết đâu những bộ tộc trong rừng rậm châu Phi, họ đang lưu truyền một vài lời nguyền rằng người ta luôn bị che mất tầm nhìn bởi những bức tường vô hình, chọn bầy đàn này, nghĩa là chống lại bầy đàn khác, chọn tôn giáo này buộc phải miệt khinh người của tôn giáo khác. Đến và đi cùng lúc, trong cái cách người ta gần lại có ẩn chứa sự xa nhau.

      Ngay cả mạng xã hội, thứ dùng để chia sẻ, cũng đi bên lằn ranh chia rẽ. Nó giúp em tìm lại rất nhiều bạn học cũ, tham gia những chuyến từ thiện, quen và yêu anh y sĩ đẹp trai. Nhưng mạng xã hội cũng góp tay cho đường ai nấy bước. Mẹ em tiếc thằng rể hụt, nói tao thấy nó hiền queo, có gì để chê đâu. Em cười cười. Thí dụ một người thấy cô gái trèo thành cầu để nhảy sông tự vẫn, anh ta đắn đo không biết nên giữ cô lại, hay cứ để cổ nhảy và ta chụp ảnh đem lên mạng hái hàng trăm cái tặc lưỡi xuýt xoa. Cái đắn đo ấy, dù là trong khoảnh khắc, cũng đáng sợ.

      Đến đồ chơi mà cũng điều chỉnh được hành vi con người, làm cho tình người xao lãng, động vật cấp cao coi vậy mà dễ tổn thương.

(Nguyễn Ngọc Tư)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản.

Câu 2. Đề tài của văn bản này là gì?

Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong đoạn trích sau: 

     Đầu năm những người bán bắp luộc chết giấc với tin nồi nước luộc có pin đèn, cuối năm giới hủ tiếu gõ sập tiệm với tin nước dùng chuột cống. Mẹ em nấu chè dừa non bán, hổm rày lo rầu sợ mở báo thấy đăng tin chè bưởi có thuốc rầy, chẳng hạn. Tai bay vạ gió, biết đâu chỉ vì một người bán chè nào đó ở cổng trường thấy một cậu học trò chửi thề ghê quá, bảo ban nó mấy câu, ai ngờ nó để bụng về tung lên mạng cái câu ăn chè bưởi ngộ độc thuốc trừ sâu. Những trang báo đói ngấu chộp lấy, năm giây sau cả nước biết tin, tẩy chay món chè của bà già.

Câu 4. Hai câu văn: Một vụ cướp tiền giữa ban ngày, người ta chỉ thấy giấy bạc bay mà không thấy nạn nhân. Hôi bia cũng vì chỉ thấy bia lăn lóc ra đường. gợi cho em những suy nghĩ gì về thực trạng đạo đức con người Việt Nam hiện nay?

Câu 5. Qua văn bản, em rút ra được những bài học nào? 

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:         Từ ngày muôn dặm phù tang(1), Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.        Vội sang vườn Thúy(2) dò la, Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.        Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa. Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời…        Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông(3).        Sập sè én...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

       Từ ngày muôn dặm phù tang(1),

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.

       Vội sang vườn Thúy(2) dò la,

Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.

       Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa.

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời…

       Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông(3).

       Sập sè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

       Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

       Chung quanh lặng ngắt như tờ,

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

       Láng giềng có kẻ sang chơi,

Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.

       Hỏi ông, ông mắc tụng đình(4),

Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.

       Hỏi nhà, nhà đã dời xa,

Hỏi chàng Vương, cùng với là Thúy Vân.

       Đều là sa sút khó khăn,

May thuê, viết mướn, kiếm ăn lần hồi.

       Điều đâu sét đánh lưng trời,

Thoắt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!

       Vội han di trú(5) nơi nào?

Đánh đường, chàng mới tìm vào tận nơi.

       Nhà tranh, vách đất tả tơi,

Lau treo rèm nát, trúc cài phên thưa.

       Một sân đất cỏ dầm mưa,

Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn người!

       Đánh liều lên tiếng ngoài tường,

Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra.

       Dắt tay vội rước vào nhà,

Mái sau, viên ngoại ông bà ra ngay.

       Khóc than kể hết niềm tây:

“Chàng ôi, biết nỗi nước này cho chưa?

       Kiều nhi phận mỏng như tờ,

Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!

       Gặp cơn gia biến lạ đường,

Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.

       Dùng dằng khi bước chân ra,

Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.

       Trót lời hẹn với lang quân,

Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.

       Gọi là trả chút nghĩa người,

Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên.”

        […] Ông bà càng nói càng đau,

Chàng càng nghe nói, càng rầu như dưa.

       Vật mình vẫy gió, tuôn mưa,

Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai!

                   (Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015)

Chú thích: 

(1) Phù tang: Chịu tang.

(2) Vườn Thúy: Nơi Kim Trọng từng trọ học, cũng là nơi Kim – Kiều cùng nhau tình tự, thề nguyền.

(3) Hoa đào… gió đông: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong đó câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (nghĩa là: “Mặt người không biết đi đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ).

(4) Tụng đình: Sân xử kiện, nơi xử kiện. Ở đây dùng với nghĩa chỉ việc kiện cáo.

(5) Han: Hỏi, di trú: Dời đi nơi khác.

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?

Câu 2. Văn bản là ngôn ngữ của ai?

Câu 3. Tóm tắt lại văn bản theo các sự kiện chính trong văn bản.

Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”?

Câu 5. Nêu tác dụng của biện pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích:

        Sập sè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

       Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

0
(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:         Từ ngày muôn dặm phù tang(1), Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.        Vội sang vườn Thúy(2) dò la, Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.        Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa. Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời…        Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông(3).        Sập sè én...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

       Từ ngày muôn dặm phù tang(1),

Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.

       Vội sang vườn Thúy(2) dò la,

Nhìn phong cảnh cũ, nay đà khác xưa.

       Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa.

Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời…

       Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông(3).

       Sập sè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

       Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

       Chung quanh lặng ngắt như tờ,

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

       Láng giềng có kẻ sang chơi,

Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.

       Hỏi ông, ông mắc tụng đình(4),

Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.

       Hỏi nhà, nhà đã dời xa,

Hỏi chàng Vương, cùng với là Thúy Vân.

       Đều là sa sút khó khăn,

May thuê, viết mướn, kiếm ăn lần hồi.

       Điều đâu sét đánh lưng trời,

Thoắt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!

       Vội han di trú(5) nơi nào?

Đánh đường, chàng mới tìm vào tận nơi.

       Nhà tranh, vách đất tả tơi,

Lau treo rèm nát, trúc cài phên thưa.

       Một sân đất cỏ dầm mưa,

Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn người!

       Đánh liều lên tiếng ngoài tường,

Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra.

       Dắt tay vội rước vào nhà,

Mái sau, viên ngoại ông bà ra ngay.

       Khóc than kể hết niềm tây:

“Chàng ôi, biết nỗi nước này cho chưa?

       Kiều nhi phận mỏng như tờ,

Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!

       Gặp cơn gia biến lạ đường,

Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.

       Dùng dằng khi bước chân ra,

Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.

       Trót lời hẹn với lang quân,

Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.

       Gọi là trả chút nghĩa người,

Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên.”

        […] Ông bà càng nói càng đau,

Chàng càng nghe nói, càng rầu như dưa.

       Vật mình vẫy gió, tuôn mưa,

Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai!

                   (Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du, Nhà xuất bản Trẻ, 2015)

Chú thích: 

(1) Phù tang: Chịu tang.

(2) Vườn Thúy: Nơi Kim Trọng từng trọ học, cũng là nơi Kim – Kiều cùng nhau tình tự, thề nguyền.

(3) Hoa đào… gió đông: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong đó câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (nghĩa là: “Mặt người không biết đi đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ).

(4) Tụng đình: Sân xử kiện, nơi xử kiện. Ở đây dùng với nghĩa chỉ việc kiện cáo.

(5) Han: Hỏi, di trú: Dời đi nơi khác.

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?

Câu 2. Văn bản là ngôn ngữ của ai?

Câu 3. Tóm tắt lại văn bản theo các sự kiện chính trong văn bản.

Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”?

Câu 5. Nêu tác dụng của biện pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích:

        Sập sè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

       Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa!

0