K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1 (2,0 điểm). Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh những con đường qua cảm nhận của nhân vật trữ tình tôi trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.Câu 2 (4,0 điểm). Những hoạt động chào mừng kỉ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975 – 2025) đã tạo nên một không khí rực rỡ và đầy cảm xúc trên khắp mọi miền Tổ quốc. Đây là cơ...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm).

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh những con đường qua cảm nhận của nhân vật trữ tình tôi trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.

Câu 2 (4,0 điểm).

Những hoạt động chào mừng kỉ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975 – 2025) đã tạo nên một không khí rực rỡ và đầy cảm xúc trên khắp mọi miền Tổ quốc. Đây là cơ hội để thế hệ trẻ hiểu sâu sắc hơn về giá trị của hoà bình, đồng thời khơi dậy lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với đất nước.

(Theo https://tuoitre.vn/khi-ban-tre-hien-long-yeu-nuoc-20250427082031587.htm)

Từ góc nhìn của người trẻ, anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của vấn đề tuổi trẻ và lòng yêu nước.

0

Đề thi đánh giá năng lực

Đọc văn bản:Tôi yêu những con đường Hà NộiCuối năm cây cơm nguội lá vàngNhững ngọn đèn thắp sáng lúc hoàng hônMái phố cũ nhấp nhô trong khói nhặt Ngã năm rộng, cỏ ven hồ xanh mướtNăm nay đào nở sớm, tháng giêng sangTháng giêng bỡ ngỡ búp bàng nonNhiều trẻ con và nhiều chim sẻ Những con đường đông vui như tuổi trẻNhư cuộc đời, bao kỷ niệm đi quaAnh trở về sau những tháng năm...
Đọc tiếp

Đọc văn bản:

Tôi yêu những con đường Hà Nội

Cuối năm cây cơm nguội lá vàng

Những ngọn đèn thắp sáng lúc hoàng hôn

Mái phố cũ nhấp nhô trong khói nhặt

 

Ngã năm rộng, cỏ ven hồ xanh mướt

Năm nay đào nở sớm, tháng giêng sang

Tháng giêng bỡ ngỡ búp bàng non

Nhiều trẻ con và nhiều chim sẻ

 

Những con đường đông vui như tuổi trẻ

Như cuộc đời, bao kỷ niệm đi qua

Anh trở về sau những tháng năm xa

Cây đã lớn, lòng ta nhiều đổi khác

 

Như đất nước vừa qua thời lửa đạn

Lại ngỡ ngàng: chim nhỏ, tháng giêng xuân

Lòng chưa quên ngọn lửa sáng đêm rừng

Câu thơ viết dưới bầu trời báo động


Tôi yêu những con đường gió lộng

Buổi mai chiều tíu tít bánh xe lăn

Mỗi ngôi nhà như dáng một người thân

Ô cửa nhỏ mở về bát ngát

 

Tôi yêu những phố dài tít tắp

Con đường nào cũng dẫn về anh

Bước chân đi xáo động cả tâm tình

Cây trổ lá như thời gian vẫy gọi

 

Những con đường ra đi, nay trở lại

Chồng gạch cao vừa dỡ ở gian hầm

Tùng chở che người đêm tối bom rung

Sẽ lớn dậy với ngôi nhà đang dựng

Thành tường vách chở che cho hạnh phúc

Thành bậc thềm mở cửa đón ban mai

 

Tôi yêu những con đường lấp lánh mưa bay

Chim sẻ sẻ và mùa xuân đến sớm...

(Những con đường tháng giêng, Xuân Quỳnh, Thơ Xuân Quỳnh, NXB Đồng Nai 1997, tr. 29)

Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là gương mặt nhà thơ nữ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ Những con đường tháng giêng được sáng tác năm 1976, là những xúc cảm tha thiết, sâu lắng về Hà Nội, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình Xuân Quỳnh.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng xuất hiện xuyên suốt trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm). Trình bày tác dụng của điệp ngữ “Tôi yêu” được sử dụng trong văn bản.

Câu 4 (1,0 điểm). Nêu sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình tôi trong văn bản.

Câu 5 (1,0 điểm). Từ tâm trạng của nhân vật trữ tình tôi, anh/ chị hãy bày tỏ suy nghĩ về sự cần thiết phải trân trọng quá khứ (trình bày trong khoảng 5 – 7 dòng).

0
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội.Câu 2 (4,0 điểm): Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao trong hai đoạn trích sau: “Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm):

Hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội.

Câu 2 (4,0 điểm):

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao trong hai đoạn trích sau:

Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.

Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.

Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi Tết. Mỵ cũng chẳng buồn đi.

Bấy giờ Mỹ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nãy Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.

Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.”

(Trích Vợ chồng A Phủ, in trong tập truyện Truyện Tây Bắc, Tô Hoài, NXB Văn học, 1971, tr.135-136)

Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng. Trước ngày cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa.

Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chồng Mao vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau thấy không làm được gì đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi, thương con dâu như con gái nên không đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ông trẻ nhất là Chúng.

(Trích Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, in trong tập truyện ngắn cùng tên của Đỗ Bích Thuý, NXB Văn học, 2021, tr.139-140)

* Vợ chồng A Phủ viết năm 1953, là một truyện ngắn hay của nhà văn Tô Hoài về đề tài Tây Bắc. Truyện kể về cô Mỵ đẹp, có tài thổi sáo và đã có người yêu. Nhà Mỵ nghèo, vì món nợ của cha mẹ mà bị nhà thống lý Pá Tra lừa bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Hồi mới về làm dâu, Mỵ còn cảm thấy đau khổ và muốn chết, nhưng thương bố, Mỵ quay trở lại làm dâu nhà Pá Tra. Từ đó Mỵ dần quen khổ, mỗi ngày một lầm lì, không nói cho đến khi mùa xuân đến...

* Tiếng đàn môi sau bờ rào đá được Đỗ Bích Thuý viết vào khoảng những năm 2000. Cô Mao đẹp người đẹp nết lấy anh Chúng vì Chúng là người duy nhất chồng đủ bạc đủ rượu. Tuy không có con với Mao song Chúng vẫn giữ lại Mao ở lại nhà làm bổn phận mẹ già trông nom con cái của Chúng với người đàn bà khác. Trước cuộc sống đi ngang về tắt của chồng, Mao bắt đầu khắc khoải về tiếng đàn môi của người thương...

1
30 tháng 5

thưa cô


Câu 1: Nguy cơ “giản lược hoá những kết nối cần thiết” trong đời sống do mạng xã hội

Mạng xã hội đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại, mang lại vô vàn tiện ích nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nguy cơ "giản lược hoá những kết nối cần thiết". Điều này thể hiện rõ nhất ở sự rút ngắn các giai đoạn giao tiếp, tìm hiểu, thậm chí là quyết định những vấn đề trọng đại như hôn nhân. Thay vì những buổi gặp gỡ trực tiếp, những lần trò chuyện sâu sắc hay các nghi thức truyền thống đòi hỏi thời gian và sự gắn kết, giờ đây chỉ cần vài cú chạm, vài tin nhắn, con người đã có thể đưa ra những phán đoán, kết luận vội vàng về nhau. Hậu quả là các mối quan hệ trở nên hời hợt, thiếu chiều sâu, dễ tan vỡ. Sự giản lược này không chỉ tước đi những trải nghiệm quý giá trong quá trình xây dựng tình cảm mà còn làm mất đi ý nghĩa của sự gắn bó bền chặt, bởi lẽ một "kết nối" được hình thành quá nhanh chóng thường thiếu đi nền tảng vững chắc của sự thấu hiểu và sẻ chia. Để giữ gìn những giá trị đích thực trong các mối quan hệ, chúng ta cần tỉnh táo và biết cách cân bằng giữa thế giới ảo và đời thực.


Câu 2: So sánh tâm trạng nhân vật Mỵ và nhân vật Mao

Tô Hoài và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ khác nhau, nhưng cả hai đều đã khắc họa thành công số phận người phụ nữ miền núi trong tác phẩm của mình. Nếu Mỵ trong "Vợ chồng A Phủ" là hình ảnh tiêu biểu cho kiếp người bị đày đọa dưới ách cường quyền, thần quyền thời Pháp thuộc, thì Mao trong "Tiếng đàn môi sau bờ rào đá" lại mang nỗi đau đớn, khắc khoải của người phụ nữ trong bối cảnh xã hội đổi thay. Dù khác biệt về thời đại và hoàn cảnh, tâm trạng của Mỵ và Mao lại có những điểm tương đồng và khác biệt sâu sắc, phản ánh chung bi kịch và khát vọng sống của những người phụ nữ vùng cao.


I. Những điểm tương đồng trong tâm trạng

Cả Mỵ và Mao đều trải qua những bi kịch cuộc đời dẫn đến tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng, đồng thời vẫn ấp ủ một khát vọng sống tiềm tàng.

Trước hết, đó là tâm trạng đau khổ, u uất vì bị tước đoạt tự do và hạnh phúc cá nhân. Mỵ bị nhà thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ, cuộc đời bị trói buộc trong cái nhà tù không có song sắt: "Mỵ cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Nàng sống như một cái bóng, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", mất đi ý niệm về thời gian và sự sống. Nỗi đau của Mỵ không chỉ là sự đày đọa thể xác mà còn là sự tàn phá tâm hồn, khiến nàng trở nên vô cảm, chai sạn trước mọi thứ xung quanh. Tương tự, Mao cũng rơi vào cảnh sống không hạnh phúc. Tuy không bị "bắt về" như Mỵ, nhưng cuộc hôn nhân của Mao với Chúng lại dựa trên "đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu" của nhà chồng, chứ không phải tình yêu đích thực. Nàng chứng kiến cảnh chồng "đi ngang về tắt" với người đàn bà khác, trong khi mình phải chấp nhận phận "mẹ già trông nom con cái của Chúng với người đàn bà khác". Nỗi đau của Mao là sự tủi nhục, đắng cay khi hạnh phúc gia đình tan vỡ, bản thân bị gạt ra lề cuộc sống riêng của chồng, dù vẫn ở trong cùng một mái nhà. Cả hai nhân vật đều trải qua sự cô độc, lẻ loi trong chính căn nhà của mình, nơi lẽ ra phải là tổ ấm.

Thứ hai, dù trong cảnh tuyệt vọng, cả Mỵ và Mao đều có những khoảnh khắc bừng tỉnh, nhận ra bi kịch của mình và ấp ủ khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Ở Mỵ, điều này thể hiện rõ nhất vào đêm tình mùa xuân. Khi men rượu thấm vào và tiếng sáo gọi bạn lửng lơ bay ngoài đường, lòng Mỵ "phơi phới trở lại", nàng nhớ về quá khứ tươi đẹp, nhớ về những ngày tháng tự do, hồn nhiên. "Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi." Chính sự trỗi dậy của khao khát sống, khao khát tình yêu đã khiến Mỵ có ý định phản kháng, dù chỉ là ý nghĩ "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa." Đây là biểu hiện của một sức sống mãnh liệt, không chấp nhận cái chết mòn của tâm hồn. Với Mao, tiếng đàn môi từ "sau hẻm núi", "từ rất xa kia" là sợi dây kết nối nàng với quá khứ, với mối tình không thành. Tiếng đàn môi "buồn rầu, trách móc" đã lay động tâm hồn Mao, khiến nàng "lặng lẽ khóc", nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mặc dù văn bản không trực tiếp miêu tả khát vọng phản kháng mãnh liệt như Mỵ, nhưng sự "khắc khoải về tiếng đàn môi của người thương" chính là biểu hiện của một tâm hồn vẫn còn nhạy cảm, vẫn còn khao khát được yêu thương, được sống một cuộc đời trọn vẹn, không chấp nhận hiện thực nghiệt ngã.


II. Những điểm khác biệt trong tâm trạng

Dù có những điểm tương đồng, tâm trạng của Mỵ và Mao vẫn có những nét riêng biệt do hoàn cảnh xã hội và tư tưởng của mỗi tác giả.

Điểm khác biệt rõ rệt nhất nằm ở tính chất của sự phản kháng và mức độ ý thức về số phận. Tâm trạng của Mỵ, đặc biệt là vào đêm tình mùa xuân, cho thấy một sự bùng nổ của khát vọng sống và ý chí phản kháng mạnh mẽ. Từ chỗ "vô cảm", Mỵ đã có ý nghĩ muốn chết để thoát khỏi đau khổ, rồi sau đó là hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn thoát. Sự phản kháng của Mỵ mang tính tự giải thoát, tự cứu mình và có tính bước ngoặt, dẫn đến một sự thay đổi lớn trong cuộc đời. Nàng ý thức rõ ràng về sự bất công, về việc mình bị tước đoạt hạnh phúc. Ngược lại, tâm trạng của Mao chủ yếu là sự khắc khoải, dằn vặt nội tâm và nỗi buồn tủi. Tiếng đàn môi dù có sức lay động lớn nhưng chưa dẫn đến một hành động phản kháng hay ý chí tự giải thoát rõ ràng như Mỵ. Mao vẫn bị kẹt trong sự chấp nhận số phận, dù đau khổ. Nỗi buồn của Mao mang tính chất trầm lắng, kéo dài hơn là một sự bùng nổ. Sự khác biệt này có thể lí giải một phần bởi bối cảnh thời đại: Mỵ sống trong thời kì vùng lên đấu tranh của dân tộc, còn Mao sống ở thời kì hòa bình, khi vấn đề cá nhân, hạnh phúc gia đình trở thành trọng tâm.

Thứ hai, cảm thức về hạnh phúc và tình yêu cũng có những sắc thái riêng. Mỵ nhớ về tiếng sáo gọi bạn của "bao nhiêu người mê" theo nàng, nhớ về tình yêu đôi lứa tự do, hồn nhiên. Đó là một tình yêu trọn vẹn, được thể hiện công khai và được cộng đồng chấp nhận. Nỗi nhớ ấy là động lực trực tiếp để Mỵ khao khát thoát khỏi cảnh địa ngục trần gian. Còn Mao, tiếng đàn môi cũng gợi về tình yêu nhưng là một tình yêu đã mất, một sự nuối tiếc, một vết thương lòng. Tiếng đàn môi "buồn rầu, trách móc" như một lời than thở cho một mối tình dang dở. Nỗi khắc khoải của Mao mang sắc thái của sự chấp nhận một bi kịch đã an bài, dù trong lòng vẫn còn vết thương. Mỵ khao khát giành lại hạnh phúc đã mất, còn Mao dường như chỉ còn biết khắc khoải về một hạnh phúc không bao giờ thuộc về mình.


III. Tổng kết

Tóm lại, dù cùng chia sẻ những nỗi đau chung của người phụ nữ miền núi bị áp bức, tước đoạt hạnh phúc, nhưng tâm trạng của Mỵ và Mao lại có những nét riêng biệt sâu sắc. Mỵ là biểu tượng của sức sống tiềm tàng và khát vọng phản kháng mạnh mẽ, bùng cháy để tự giải thoát. Mao là hình ảnh của sự khắc khoải, day dứt trước một số phận đã an bài, thể hiện nỗi đau âm ỉ, dai dẳng. Qua đó, cả Tô Hoài và Đỗ Bích Thúy đều đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của người phụ nữ, đồng thời khẳng định giá trị của khát vọng tự do và hạnh phúc, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

xin cô tick ạ

Đọc đoạn trích sau:Lời cầu hôn trong thời đại số (1) Từ lúc hai đứa trẻ gặp nhau lần đầu tiên cho đến khi chúng chính thức trở thành "vợ chồng" theo phong tục, có thể chỉ tính bằng tiếng đồng hồ. "Bây giờ có cái Facebook đẩy." – phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia nhận định. Hai bạn trẻ có thể kết bạn qua mạng, gặp nhau lần đầu, thích nhau và sau vài chục phút đã có...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

Lời cầu hôn trong thời đại số

(1) Từ lúc hai đứa trẻ gặp nhau lần đầu tiên cho đến khi chúng chính thức trở thành "vợ chồng" theo phong tục, có thể chỉ tính bằng tiếng đồng hồ. "Bây giờ có cái Facebook đẩy." – phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia nhận định. Hai bạn trẻ có thể kết bạn qua mạng, gặp nhau lần đầu, thích nhau và sau vài chục phút đã có mặt tại nhà người nam để bắt đầu tiến trình trở thành vợ chồng."Vừa yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không?", một cô bé 14 tuổi tại Vân Hồ chia sẻ trên sóng VTV về một người bạn quen qua Facebook. Tổng thời gian từ lúc kết bạn qua mạng đến lúc thành vợ người ta là trong hai ngày (....)

(2) Mở Facebook giữa những kỳ nghỉ lễ, rất dễ gặp ai đó đang check-in bên những tán mận trắng, những đồi chè hay nếp nhà người Mông ở Vân Hồ. Du lịch đang bùng nổ. Giữa huyện miền núi là một đô thị đang thai nghén với đường bê tông sáu làn xe. Những tín hiệu kinh tế lấp lánh. Kỷ niệm 10 năm thành lập huyện là một chương trình nghệ thuật quy mô với đầy nghệ sĩ tên tuổi từ Hà Nội; giải xe thể thao tường thuật trực tiếp trên VTV và hàng đoàn xe dưới xuôi lên dự hội. Dọc quốc lộ 6 đang mọc nhà hàng, homestay và nông trại dâu tây – thứ đặc sản mới ở vùng khí hậu này. Trong 10 năm, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm một nửa.

(3) Nhưng những tín hiệu kinh tế đó chưa làm suy chuyển những định kiến lâu đời. Năm 2021, ở Vân Hồ có 72 cặp tảo hôn trong tổng số 265 cặp kết hôn, theo thống kê của Trung tâm Y tế huyện. 144 đứa trẻ lấy vợ lấy chồng. Nhưng trong văn bản xác định mục tiêu vận động chống nạn tảo hôn của trung tâm y tế cuối năm đó, người ta nhìn thấy một mục tiêu cho năm 2022: "Giảm 0,5% tỉ lệ tảo hôn". Viết bằng chữ: không phẩy năm phần trăm. Năm 2022, số ca tảo hôn tăng lên tới 81. Nhưng vì năm đó có nhiều cặp kết hôn hơn nên tỉ lệ tảo hôn lại thành ra giảm. Thống kê gần nhất ở quy mô toàn quốc (số liệu năm 2018) cho thấy tỉ lệ tảo hôn vẫn đang chiếm đa số trong cộng đồng người Mông, với mức 51%. Con số này tăng so với lần thống kê trước đó của UN Women (năm 2015, hơn 30%). Tại Vân Hồ, thống kê riêng của Trung tâm Y tế huyện, khẳng định rằng trong năm tháng đầu năm 2023, đã có 53 cặp tảo hôn trong tổng số 165 cặp kết hôn, với tỉ lệ 32%.

(4) Theo nhận định của lãnh đạo Trung tâm Y tế huyện – những người đang phụ trách các chương trình về sức khỏe tiền sinh sản trong cộng đồng, tình trạng tảo hôn "có xu hướng gia tăng". Những yếu tố tạo ra những ca tảo hôn đều hình thành một cách tự nhiên: áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15; định kiến giới nặng nề về vai trò "trước sau gì cũng lấy chồng sinh con" của người con gái; hôn nhân được tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ. Và như nhận định của những cán bộ tại Vân Hồ, do những kết nối mới thông qua Internet.

(5) Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném – bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.

(Đinh Đức Hoàng, https://cuoituan.tuoitre.vn/xu-huong-gia-tang-tao-hon-loi-cau-hon-tuoi-15)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra cách trình bày thông tin trong văn bản.

Câu 2 (0,75 điểm): Theo văn bản, có những lí do nào khiến hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng trong thời đại công nghệ khi tín hiệu kinh tế đã đáng mừng hơn?

Câu 3 (1,0 điểm): Nhận xét về vai trò, ý nghĩa của các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được thể hiện ở đoạn (1) và (3) trong văn bản.

Câu 4 (0,75 điểm): Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong câu sau: “Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.”

Câu 5 (1,0 điểm): Văn bản “Lời cầu hôn trong thời đại số” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về những ảnh hưởng, áp lực của cộng đồng và định kiến trong đời sống?

1
30 tháng 5


thưa cô

Dưới đây là phân tích các câu hỏi dựa trên đoạn trích "Lời cầu hôn trong thời đại số":


Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra cách trình bày thông tin trong văn bản.

Văn bản trình bày thông tin theo cách kết hợp giữa việc nêu vấn đề, phân tích nguyên nhân, và đưa ra số liệu minh chứng. Cụ thể:

  • Nêu vấn đề và hiện tượng: Đoạn (1) và (2) giới thiệu về tình trạng tảo hôn đang diễn ra ở Vân Hồ trong bối cảnh phát triển của công nghệ và du lịch.
  • Phân tích nguyên nhân: Đoạn (4) và (5) đi sâu vào lý do khiến tảo hôn gia tăng, bao gồm cả yếu tố truyền thống và tác động của mạng xã hội.
  • Sử dụng số liệu, dẫn chứng: Đoạn (1) và (3) cung cấp các con số thống kê cụ thể, lời kể của nhân vật (phó chủ tịch xã, cô bé 14 tuổi), và các kết quả nghiên cứu (UN Women) để tăng tính xác thực và thuyết phục cho lập luận.

Câu 2 (0,75 điểm): Theo văn bản, có những lí do nào khiến hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng trong thời đại công nghệ khi tín hiệu kinh tế đã đáng mừng hơn?

Theo văn bản, mặc dù có tín hiệu kinh tế đáng mừng, hiện tượng tảo hôn ở Vân Hồ vẫn có xu hướng gia tăng do các lí do sau:

  • Định kiến lâu đời và áp lực cộng đồng: Đoạn (4) chỉ ra rằng "những tín hiệu kinh tế đó chưa làm suy chuyển những định kiến lâu đời". Tình trạng tảo hôn hình thành một cách tự nhiên từ "áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15".
  • Định kiến giới nặng nề: "định kiến giới nặng nề về vai trò 'trước sau gì cũng lấy chồng sinh con' của người con gái" cũng là một nguyên nhân được nhắc đến ở đoạn (4).
  • Hôn nhân được thừa nhận một cách tối giản: "hôn nhân được tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ" (đoạn 4) khiến việc kết hôn sớm trở nên dễ dàng.
  • Kết nối mới thông qua Internet và mạng xã hội: Đây là một yếu tố quan trọng trong thời đại số. Mạng xã hội "giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân", bỏ qua các nghi thức truyền thống như "tiếng sáo gọi bạn, những đêm hội, ném-bắt quả pao" (đoạn 5). Đoạn (1) cũng dẫn chứng cụ thể về việc "yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không" qua Facebook.

Câu 3 (1,0 điểm): Nhận xét về vai trò, ý nghĩa của các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp được thể hiện ở đoạn (1) và (3) trong văn bản.

Trong văn bản, các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp ở đoạn (1) và (3) đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng:

  • Dữ liệu sơ cấp:
    • Biểu hiện: Là những thông tin được thu thập trực tiếp, ví dụ như lời nhận định của phó chủ tịch xã Lóng Luông, Giàng A Gia ("Bây giờ có cái Facebook đẩy") và lời chia sẻ của cô bé 14 tuổi tại Vân Hồ ("Vừa yêu được 2 tiếng thì anh ấy hỏi có cưới không").
    • Vai trò, ý nghĩa: Các dữ liệu này mang tính chân thực, sống động,cụ thể hóa vấn đề. Chúng giúp người đọc hình dung rõ ràng hơn về cách thức tảo hôn diễn ra trong thời đại số, đặc biệt là vai trò của mạng xã hội. Lời kể trực tiếp từ những người trong cuộc tăng thêm tính thuyết phụcsức nặng cảm xúc, cho thấy tác động trực tiếp của hiện tượng này lên đời sống cá nhân.
  • Dữ liệu thứ cấp:
    • Biểu hiện: Là những thông tin đã được thu thập và tổng hợp từ các nguồn có sẵn, ví dụ như thống kê của Trung tâm Y tế huyện Vân Hồ (72 cặp tảo hôn năm 2021, 81 ca năm 2022, 53 cặp trong 5 tháng đầu năm 2023), thống kê quy mô toàn quốc năm 2018 (tỉ lệ tảo hôn người Mông 51%), và số liệu của UN Women năm 2015 (hơn 30%).
    • Vai trò, ý nghĩa: Các dữ liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan, khách quan, và có hệ thống về quy mô và xu hướng của vấn đề tảo hôn. Chúng giúp người đọc hiểu được tính nghiêm trọngtính phổ biến của hiện tượng, đồng thời chứng minh rằng tảo hôn không chỉ là vấn đề cá biệt mà là một vấn trạng xã hội cần được quan tâm. Sự so sánh giữa các mốc thời gian và các nguồn khác nhau (thống kê huyện, toàn quốc, UN Women) còn cho thấy sự dai dẳng, phức tạp, và thậm chí là tăng lên của vấn đề, bất chấp những nỗ lực giảm thiểu.

Tóm lại, sự kết hợp giữa dữ liệu sơ cấp và thứ cấp giúp văn bản vừa mang tính thuyết phục cao nhờ các con số và thống kê, vừa tạo được sự đồng cảmhiểu biết sâu sắc về thực trạng thông qua những câu chuyện và lời nhận định trực tiếp.


Câu 4 (0,75 điểm): Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong câu sau: “Không cần tiếng sáo gọi bạn, không cần những đêm hội, không cần ném-bắt quả pao, mạng xã hội đã giản lược hóa tất cả những kết nối cần thiết để những thiếu niên này đi đến một quyết định hôn nhân.”

Biện pháp tu từ điệp ngữ "không cần" được lặp đi lặp lại có hiệu quả mạnh mẽ trong việc nhấn mạnh và làm nổi bật:

  • Sự đối lập và thay đổi nhanh chóng: Điệp ngữ "không cần" lặp lại ba lần ở đầu câu tạo ra một nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, đồng thời nhấn mạnh sự đảo lộn hoàn toàn trong cách thức kết nối hôn nhân. Nó đối lập rõ rệt giữa những nét đẹp truyền thống, những nghi lễ văn hóa lâu đời ("tiếng sáo gọi bạn", "những đêm hội", "ném-bắt quả pao") với thực trạng hiện đại.
  • Tác động mạnh mẽ của mạng xã hội: Việc lặp lại này tập trung sự chú ý vào vế sau của câu, nơi mạng xã hội được chỉ ra là yếu tố "giản lược hóa tất cả". Điều này cho thấy quyền năng to lớn của công nghệ trong việc rút ngắn, thậm chí bỏ qua các giai đoạn tìm hiểu, gắn kết truyền thống.
  • Tính chất đơn giản hóa và nguy cơ: Việc "không cần" những yếu tố truyền thống cho thấy một sự giản lược hóa quá mức, làm mất đi ý nghĩa sâu sắc và giá trị của hôn nhân. Từ đó ngụ ý về những quyết định vội vàng, thiếu chín chắn do sự thiếu vắng các bước đệm cần thiết. Nó thể hiện một sự lo ngại của tác giả về những tác động tiêu cực của Internet đối với vấn đề hôn nhân của giới trẻ.

Tóm lại, điệp ngữ "không cần" không chỉ tạo nhịp điệu cho câu văn mà còn góp phần làm nổi bật thực trạng đáng báo động về sự thay đổi trong cách kết nối và đưa ra quyết định hôn nhân của giới trẻ, đặc biệt là trong bối cảnh tảo hôn gia tăng do ảnh hưởng của công nghệ.


Câu 5 (1,0 điểm): Văn bản “Lời cầu hôn trong thời đại số” gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về những ảnh hưởng, áp lực của cộng đồng và định kiến trong đời sống?

Văn bản "Lời cầu hôn trong thời đại số" đã gợi cho tôi nhiều suy nghĩ sâu sắc về những ảnh hưởng và áp lực dai dẳng của cộng đồng và định kiến trong đời sống, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện đại có nhiều thay đổi:

  • Sức ì lớn của định kiến: Điều đáng suy ngẫm nhất là dù kinh tế phát triển, du lịch bùng nổ, và công nghệ hiện đại len lỏi vào từng ngóc ngách, nhưng những định kiến lâu đời vẫn tồn tại bền bỉ và thậm chí lấn át cả những tiến bộ vật chất. Điều này cho thấy rằng sự phát triển kinh tế không đồng nghĩa với sự thay đổi trong tư duy và tập quán xã hội, đặc biệt là ở những vùng cộng đồng còn bảo thủ. Định kiến "trước sau gì cũng lấy chồng sinh con" đối với con gái là một ví dụ rõ rệt, nó ăn sâu vào tiềm thức và trở thành áp lực vô hình nhưng mạnh mẽ.
  • Áp lực từ thế hệ trước: Văn bản chỉ ra rằng "áp lực của một bộ phận cộng đồng, những người thuộc thế hệ trước, vốn cũng kết hôn từ khi 14, 15" là một nguyên nhân của tảo hôn. Điều này thể hiện một vòng luẩn quẩn: chính những người từng là nạn nhân hoặc là người thực hành tảo hôn lại vô tình (hoặc hữu ý) duy trì tập tục này cho thế hệ sau. Áp lực này không chỉ là lời nói mà còn là sự "mặc định" trong nếp nghĩ, nếp sống của cả một cộng đồng, khiến các cá nhân khó lòng thoát ra.
  • Sự nguy hiểm của "đơn giản hóa" các giá trị: Việc hôn nhân được "tuyên bố và thừa nhận một cách tối giản, chỉ cần ý chí nhất thời của cả hai đứa trẻ" là một hệ quả đáng lo ngại. Điều này cho thấy khi những giá trị và nghi thức truyền thống bị bỏ qua, bị đơn giản hóa do sự phát triển của công nghệ và sự thiếu vắng giáo dục, các quyết định quan trọng trong đời sống con người trở nên hời hợt, dễ dẫn đến những hệ lụy lâu dài.
  • Mâu thuẫn giữa tiến bộ và bảo thủ: Văn bản vẽ ra một bức tranh mâu thuẫn: một bên là Vân Hồ đang "thai nghén" đô thị, có đường bê tông, du lịch bùng nổ, nhưng mặt khác, tỷ lệ tảo hôn vẫn cao và thậm chí có xu hướng gia tăng. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế-xã hội không tự động giải quyết được các vấn đề xã hội có gốc rễ từ văn hóa và định k...

emchaof cô


Đọc đoạn trích sau:CON THÚ LỚN NHẤTNguyễn Huy Thiệp Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại,...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

CON THÚ LỚN NHẤT

Nguyễn Huy Thiệp

Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.

Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.

Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt... Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ già của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.

Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?

Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú… Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái. Cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “đùng”! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.

Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con vượn. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây, gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.

Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão.

Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.

(Trích Những ngọn gió Hua Tát, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr. 258 – 262)

* Chú thích:

Cái lếp: giỏ đeo.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm): Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhoè máu.

Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.

Câu 5 (1,0 điểm): Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

0
28 tháng 5

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

Câu 1. (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về cảm xúc của chủ thể trữ tình trong đoạn trích sau: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước...
Đọc tiếp

Câu 1. (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về cảm xúc của chủ thể trữ tình trong đoạn trích sau:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn

(Nhớ, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, Tập 3, NXB Văn học, 1997, tr.67)

Câu 2. (4,0 điểm)

Trong cuốn sách Đủ nắng thì hoa nở, tác giả Ba Gàn viết: “Đừng tìm bình an, mà hãy chủ động an bình trước mọi hoàn cảnh.”.

Từ câu nói trên, hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về cách sống chủ động của tuổi trẻ trong xã hội hiện đại.

0
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn Ngôi sao trong...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ ngàn cây

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

(Nhớ, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, Tập 3, NXB Văn học, 1997, tr.67)

Câu 1. (0,5 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên.

Câu 2. (0,5 điểm) Chỉ ra những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản.

Câu 3. (1,0 điểm) Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong hai dòng thơ sau:

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.

Câu 4. (1,0 điểm) Anh/Chị cho biết ý nghĩa của hình ảnh “ngôi sao”, “ngọn lửa” trong văn bản.  

Câu 5. (1,0 điểm) Từ văn bản, anh/chị suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với đất nước (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

1

Câu 1. Thể thơ của văn bản trên là thể tự do.

Câu 2. Những từ ngữ miêu tả hình ảnh ngọn lửa trong văn bản: "hồng đêm lạnh""bập bùng đỏ rực".

Câu 3. Hai dòng thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “anh yêu em như anh yêu đất nước”. So sánh tình yêu đôi lứa với tình yêu đất nước làm nổi bật sự thiêng liêng, sâu sắc và thủy chung. Qua đó, nhà thơ thể hiện quan niệm cao đẹp: tình yêu cá nhân hòa quyện trong tình yêu lớn lao với Tổ quốc, làm cho tình cảm trở nên vừa lãng mạn vừa hào hùng.

Câu 4. Hình ảnh “ngôi sao” tượng trưng cho ánh sáng dẫn đường, hy vọng và lý tưởng sống. Hình ảnh “ngọn lửa” tượng trưng cho sự ấm áp, nhiệt huyết, sức sống bền bỉ trong hoàn cảnh gian khổ. Cả hai hình ảnh đều thể hiện tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của người chiến sĩ giữa chiến trường.

Câu 5. từ văn bản em nhận ra thế hệ trẻ hôm nay cần có trách nhiệm yêu nước và sống có lý tưởng. dù không phải cầm súng ra trận nhưng chúng em phải học tập tốt, rèn luyện bản thân, biết yêu thương con người và cống hiến cho cộng đồng. đó chính là cách thể hiện lòng biết ơn với những người đi trước và góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Câu 1. (2,0 điểm) Từ kết quả đọc hiểu văn bản trên kết hợp với trải nghiệm cá nhân, anh/chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải thích ứng với những thay đổi của cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay.Câu 2. (4,0 điểm) Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai văn bản sau:* Văn bản 1: Cánh chim...
Đọc tiếp

Câu 1. (2,0 điểm)

Từ kết quả đọc hiểu văn bản trên kết hợp với trải nghiệm cá nhân, anh/chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải thích ứng với những thay đổi của cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay.

Câu 2. (4,0 điểm)

Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai văn bản sau:

* Văn bản 1:

Cánh chim báo sang mùa
Nắng hoai hoai cuối hạ
Màu mây non lá mạ
Gió trên cành hiu hiu

Chừng như thu ngấp nghé
Trong hương cốm đâu đây
Khói lam chiều rất nhẹ
Sông vừa vơi vừa đầy

Phút giây chuyển sang mùa
Nghe vô cùng huyền diệu
Không thừa và không thiếu
Tay thiên nhiên đặt bày

(Trích Sang mùa, Tạ Hữu Yên1, Thơ Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục, 2005, tr.915)

* Văn bản 2:

Một ban mai bỗng thơm gió hanh về
Tiếng lá rụng ngoài vườn cây xào xạc
Em mở cửa, hương lùa vào man mác
Anh bàng hoàng tỉnh dậy: đã vào thu

Thời gian đi êm nhẹ tựa lời ru
Em lặng lẽ tháng ngày như thế đó
Anh thương lắm đôi bàn tay nho nhỏ
Đã làm nên bao chuyện lạ trên đời.

Mảnh đất em chăm nên nụ nên chồi
Ong hút mật rù rì chiều nắng biếc
Hoa thức suốt đêm dài không mỏi mệt
Chợt thu về chín ngọt một mùa hương.

(Trích Vườn thu, Võ Văn Trực2, Thơ Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục, 2005, tr.835)

* Chú thích:

1Tạ Hữu Yên (1927 – 2013), quê ở Ninh Bình. Ông là tác giả của nhiều bài thơ đã được phổ nhạc, tiêu biểu như Đất nước, Đôi dép Bác Hồ, Cảm xúc tháng Mười,… Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2017.

2Võ Văn Trực (1936 – 2019), quê ở Nghệ An. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông viết nhiều thể loại và thi ca là lĩnh vực tiêu biểu nhất; một số tập thơ đặc sắc như Hành khúc mùa xuân (1980), Trăng phù sa (1983), Tiếng ru đồng nội (1990),…

0