K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 5

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là điển hình tiêu biểu cho người nông dân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Lão là một người nông dân nghèo khổ, góa vợ, sống đơn độc cùng với con trai và chú chó cậu Vàng. Cuộc sống của lão đầy những khó khăn, thiếu thốn, thể hiện rõ cảnh nghèo túng của tầng lớp nông dân trong xã hội phong kiến cũ. Dù nghèo nhưng lão vẫn giữ phẩm chất lương thiện, thật thà và giàu lòng tự trọng, không muốn làm phiền đến ai, luôn cố gắng dành dụm tài sản để lo cho con trai tương lai. Lão Hạc thể hiện tình cảm sâu sắc, yêu thương con trai và cả chú chó như người thân trong gia đình. Sự đau đớn, cô đơn và tuyệt vọng của lão khi phải bán cậu Vàng và quyết định tự tử đã phản ánh bi kịch của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã khắc họa chân thực số phận éo le, nỗi khổ cực và phẩm chất cao đẹp của người nông dân trước cách mạng, đồng thời phê phán xã hội phong kiến thối nát đã đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Vì vậy, Lão Hạc không chỉ là hình ảnh cá nhân mà còn là biểu tượng cho cả tầng lớp nông dân Việt Nam trong thời kỳ đó.

22 tháng 5

Có vẻ bạn đang cần giúp đỡ với bài tập chọn từ có phần gạch chân phát âm hoặc nhấn âm khác. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn cách làm và ví dụ minh họa cho từng phần.


PHẦN I: Chọn từ có phần gạch chân phát âm khác

Cách làm:

  • Bạn đọc kỹ từng từ được gạch chân trong các đáp án.
  • Xác định âm tiết hoặc nguyên âm được gạch chân phát âm như thế nào (âm /a/, /e/, /i/, /o/, /u/, hoặc âm cuối).
  • Tìm từ có âm gạch chân phát âm khác với các từ còn lại.

Ví dụ:

  1. A. ô nhiễm
    B. hành tinh
    C. chất thải
    D. nhựa
  • Âm gạch chân ở đây là âm tiết cuối. Bạn so sánh âm cuối của từng từ để tìm từ phát âm khác.

PHẦN II: Chọn từ có mẫu nhấn âm khác

Cách làm:

  • Xác định vị trí trọng âm trong từ (âm tiết được nhấn mạnh).
  • So sánh vị trí trọng âm của các từ trong nhóm.
  • Chọn từ có trọng âm khác với các từ còn lại.

Ví dụ:

  1. A. cẩn thận (trọng âm ở âm tiết 2)
    B. một cách thông minh (trọng âm ở âm tiết cuối)
    C. dự đoán (trọng âm ở âm tiết 2)
    D. tấm (từ đơn âm tiết)
  • Từ có trọng âm khác là D (vì chỉ có 1 âm tiết).

Nếu bạn gửi cụ thể từng câu hoặc nhóm từ, mình sẽ giúp bạn chọn đáp án chính xác từng câu nhé! Bạn có thể gửi lại từng câu rõ ràng hơn để mình hỗ trợ tốt hơn.

22 tháng 5

It looks like you need help with exercises on English pronunciation and stress patterns. Below, I’ll guide you on how to approach these questions and provide some examples.


Part I: Choose the word whose underlined part is pronounced differently

How to do it:

  • Look at the underlined part of each word.
  • Identify the sound of the underlined part in each word.
  • Find the word whose underlined part is pronounced differently from the others.

Example:
1.

  • A. pollution (the underlined part “-tion” pronounced /ʃən/)
  • B. planets (the underlined “-et” pronounced /ɪt/)
  • C. chocolate (the underlined “-ate” pronounced /ɪt/)
  • D. plastic (the underlined “-ic” pronounced /ɪk/)

Here, the underlined parts have different sounds, so you identify the one that differs.


Part II: Choose the word which has a different stress pattern

How to do it:

  • Say each word aloud or think about its syllables.
  • Identify which syllable is stressed (spoken with emphasis).
  • Find the word whose stress pattern is different from the others.

Example:
1.

  • A. carefully (stress on first syllable: CARE-ful-ly)
  • B. intelligently (stress on third syllable: in-tel-LI-gent-ly)
  • C. prediction (stress on second syllable: pre-DIC-tion)
  • D. director (stress on second syllable: di-REC-tor)

Here, “carefully” has stress on the first syllable, while the others have stress on the second or third syllable, so A is the different one.


If you want, you can provide specific questions or words, and I can help you identify the correct answers. Just send me the exact items you want to check!

Trong hệ thống giáo dục hiện nay, học sinh phải đối mặt với rất nhiều áp lực từ bài vở, từ kỳ thi, và từ các yêu cầu của xã hội. Để có thể đạt được kết quả học tập tốt, nhiều học sinh đã phải tìm cách học tủ, học vẹt, tức là học theo một cách thức đơn giản nhưng không có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của kiến thức. Tình trạng học tủ, học vẹt không phải...
Đọc tiếp

Trong hệ thống giáo dục hiện nay, học sinh phải đối mặt với rất nhiều áp lực từ bài vở, từ kỳ thi, và từ các yêu cầu của xã hội. Để có thể đạt được kết quả học tập tốt, nhiều học sinh đã phải tìm cách học tủ, học vẹt, tức là học theo một cách thức đơn giản nhưng không có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của kiến thức. Tình trạng học tủ, học vẹt không phải là mới mẻ, nhưng nó lại trở thành một vấn đề đáng lo ngại trong bối cảnh hiện nay, khi mà giáo dục đang ngày càng yêu cầu sự sáng tạo, tư duy độc lập và khả năng giải quyết vấn đề. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là gì? Hậu quả của nó đối với học sinh và xã hội ra sao?

Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ "học tủ" và "học vẹt" là gì. Học tủ là việc học những kiến thức chỉ xoay quanh một số chủ đề, phần bài học mà học sinh dự đoán có thể ra trong kỳ thi, bỏ qua những phần kiến thức khác không có khả năng xuất hiện trong đề thi. Học vẹt là việc học thuộc lòng kiến thức mà không cần hiểu rõ bản chất của nó, chỉ cần nhớ một cách máy móc để đạt được điểm số tốt mà không quan tâm đến sự hiểu biết sâu rộng hay ứng dụng của kiến thức trong thực tế.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học tủ, học vẹt là áp lực thành tích. Trong một xã hội mà điểm số và thành tích học tập được coi trọng hơn cả, học sinh luôn bị cuốn vào cuộc đua điểm số. Thay vì phát triển tư duy độc lập và sáng tạo, họ lại chú trọng vào việc đạt được kết quả ngay lập tức để đáp ứng kỳ vọng của gia đình và xã hội. Điều này khiến họ dễ dàng chọn lựa việc học thuộc lòng, học một cách cơ học mà không cần hiểu thấu đáo bản chất của bài học.

Ngoài ra, hệ thống thi cử cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy học tủ, học vẹt. Trong các kỳ thi, đặc biệt là các kỳ thi đại học, điểm số luôn là yếu tố quyết định, khiến cho học sinh cảm thấy việc học theo kiểu học vẹt là cách duy nhất để đạt điểm cao. Các đề thi thường thiên về việc kiểm tra khả năng nhớ lại kiến thức, thay vì đánh giá khả năng tư duy hay phân tích vấn đề. Điều này càng khuyến khích việc học tủ, học vẹt để đạt kết quả tốt nhất mà không cần suy nghĩ quá nhiều về bản chất của kiến thức.

Một nguyên nhân khác là chế độ học tập ở nhiều trường học vẫn còn nặng về lý thuyết, ít có cơ hội cho học sinh phát triển các kỹ năng tư duy, sáng tạo. Việc dạy và học thường chỉ xoay quanh việc truyền đạt kiến thức, không khuyến khích học sinh tìm tòi, khám phá hay ứng dụng kiến thức vào thực tế. Điều này khiến cho học sinh thiếu đi sự hứng thú và đam mê học hỏi, chỉ học theo kiểu máy móc, thuộc lòng để đối phó với kỳ thi.

Học tủ, học vẹt mang lại kết quả học tập ngắn hạn, nhưng lại gây ra những hậu quả lâu dài nghiêm trọng. Trước hết, nó làm giảm khả năng sáng tạo và tư duy độc lập. Khi học sinh chỉ tập trung vào việc nhớ lại các kiến thức đã học, họ không phát triển được khả năng phân tích, đánh giá hay sáng tạo. Điều này khiến họ thiếu tự tin khi gặp phải những vấn đề thực tế cần đến sự sáng tạo và giải quyết độc lập.

Hơn nữa, học tủ, học vẹt khiến học sinh không hiểu sâu về kiến thức, chỉ học để đối phó với bài thi. Khi không hiểu bản chất vấn đề, học sinh sẽ không thể áp dụng kiến thức vào thực tế, và sẽ gặp khó khăn khi phải đối mặt với những tình huống mới. Điều này cũng tạo ra một lỗ hổng lớn trong nền giáo dục, khi mà học sinh chỉ học để qua môn, chứ không phải để thực sự hiểu biết và ứng dụng kiến thức.

Một hậu quả nghiêm trọng khác là học tủ, học vẹt có thể gây ra sự mệt mỏi và căng thẳng tâm lý cho học sinh. Họ phải dành quá nhiều thời gian và công sức vào việc học thuộc lòng, mà không có thời gian để thư giãn hay phát triển bản thân. Điều này dẫn đến tình trạng căng thẳng, lo âu, và đôi khi là những vấn đề tâm lý nghiêm trọng như trầm cảm. Học sinh cảm thấy mình không thể thỏa mãn được kỳ vọng của gia đình và xã hội, khiến họ mất đi niềm vui học tập và cảm giác thành công.

Dẫn chứng: Một ví dụ điển hình có thể kể đến là việc thi đại học ở Việt Nam. Hàng năm, rất nhiều học sinh chỉ tập trung học tủ các môn thi, ôn luyện theo các đề thi cũ, thay vì học sâu về các môn học. Một khảo sát gần đây cho thấy tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học bằng phương pháp học tủ chiếm phần lớn, nhưng lại không đủ khả năng để giải quyết các vấn đề thực tế trong ngành học của mình. Điều này phản ánh rõ nét sự thiếu hụt trong quá trình giáo dục, khi học sinh không được trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ năng thực tế.

Nhìn lại bản thân mình, tôi cũng đã từng rơi vào tình trạng học tủ và học vẹt khi còn học cấp ba. Lúc ấy, tôi chỉ chú trọng vào việc học các phần có khả năng ra trong kỳ thi mà không thực sự hiểu rõ bản chất vấn đề. Dù có thể đạt điểm cao trong kỳ thi, nhưng khi áp dụng kiến thức vào thực tế, tôi lại gặp rất nhiều khó khăn. Chính từ những trải nghiệm đó, tôi nhận ra rằng việc học để hiểu và yêu thích môn học mới là điều quan trọng, còn học tủ chỉ là một giải pháp tạm thời, không thể giúp mình phát triển lâu dài.

Mặc dù học tủ, học vẹt có thể giúp học sinh đạt được kết quả học tập cao trong ngắn hạn, nhưng đó không phải là cách duy nhất để thành công. Việc học theo kiểu sáng tạo, tự giác và hiểu biết sâu sắc về kiến thức mới là cách giúp học sinh phát triển toàn diện và có khả năng giải quyết vấn đề trong thực tế. Chúng ta không nên chỉ chú trọng vào kết quả thi cử, mà cần phải tạo ra một môi trường học tập khuyến khích tư duy sáng tạo và phát triển kỹ năng sống.

Tóm lại, học tủ, học vẹt là một hiện tượng phổ biến trong giới học sinh hiện nay, nhưng nó không phải là phương pháp học tập bền vững. Mặc dù có thể mang lại kết quả tạm thời, nhưng nó sẽ cản trở sự phát triển tư duy, sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề của học sinh. Để tạo ra một thế hệ học sinh có khả năng đáp ứng được những thách thức của xã hội hiện đại, chúng ta cần thay đổi phương pháp giáo dục, khuyến khích học sinh học một cách sâu sắc, sáng tạo và tự giác. Chỉ khi học sinh thực sự hiểu và yêu thích môn học, họ mới có thể phát triển toàn diện và đóng góp cho xã hội trong tương lai.

1
21 tháng 4

hay k ạ

21 tháng 4

Đều do giai cấp tư sản và tầng lớp trí thức lãnh đạo, mang tính dân tộc, chống thực dân, nhưng còn non yếu và dễ bị đàn áp.

20 tháng 4

\(P=-2:\frac{6x}{x-5}=-\frac{2\left(x-5\right)}{6x}=-\frac{x-5}{3x}\)

22 tháng 5

1. Văn lớp 8 – Cảm xúc về bài thơ “Trở về quê nội”
Khi đọc “Trở về quê nội” của Lê Anh Xuân, mình như được trở lại miền ký ức tuổi thơ đầy ắp tình ruộng đồng, bóng dừa xanh biếc. Lời thơ giản dị mà ăm ắp bao thương nhớ: niềm hạnh phúc khi gặp lại “những mặt người ta yêu biết mấy”, cái run rẩy trong tay khi nắm bàn tay người thân đã khuất. Mỗi hình ảnh “kẽo kẹt tiếng võng trưa”, câu hát ầu ơ lại vang vọng nỗi bâng khuâng, vừa ngập tràn niềm xúc động, vừa man mác nỗi buồn thời gian đã qua. Bài thơ khiến mình trân trọng hơn ký ức gia đình, thêm quý trọng những khoảnh khắc giản dị nhưng sâu sắc ở nơi chôn nhau cắt rốn.

22 tháng 5

v

VM
20 tháng 4

Qua lời độc thoại "Đứng đây mãi cho đến bao giờ? Thôi thì liều chết vậy. Ta cứ xuống, nói hai tiếng xin đánh rồi mặc cho triều đình luận tội", em thấy Hoài Văn là một người rất dũng cảm và yêu nước tha thiết. Dù biết rằng mình có thể bị vua trách phạt, nhưng vì muốn cứu nước, Hoài Văn vẫn quyết tâm nói ra ý chí đánh giặc. Câu nói cho thấy em ấy không sợ gian nguy, chỉ mong được bảo vệ non sông. Em rất khâm phục tinh thần dũng cảm và lòng trung thành với đất nước của Hoài Văn.

VM
20 tháng 4

tick mình plss :(

VM
19 tháng 4

Con người nha bạn .