K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

    Cuộc đời này luôn cần có những con người dám nghĩ – dám làm, những con người sẵn sàng hành động vì chính nghĩa mà không cần phải mất nhiều thời gian để tính toán thiệt hơn. Để làm được điều đó cần phải có can đảm, và cả lòng hy sinh. Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát.

    Chẳng thà bạn phạm sai lầm, chẳng thà bạn phải dò dẫm tìm một lối đi mới và hữu ích còn hơn là cứ phân vân, lo sợ thất bại để rồi chùn bước. Khi dám nghĩ dám làm, sức mạnh tiềm ẩn vốn có trong mỗi chúng ta sẽ trỗi dậy để hỗ trợ và tiếp sức, đưa ta tiến lên phía trước.

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ. Bạn sẽ không phải mất thời gian mò tìm lối thoát từ những ngổn ngang của các hy vọng vỡ vụn và ước mơ héo úa. Hãy cố gắng làm công việc của bạn tốt hơn người tiền nhiệm; đừng để cho cái bóng của người phía trên che khuất bạn. Để đạt được tất cả những điều đó thì trước hết bạn phải dám nghĩ – dám làm.

(Trích You can – Không gì là không thể, George Matthew Adams, dịch giả Thu Hằng, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.132 – 133)

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?  

Câu 2. Theo văn bản, khi dám nghĩ dám làm thì điều gì sẽ đến với mỗi chúng ta?

Câu 3.  Hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các câu văn sau có ý nghĩa gì?

    Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ. Hãy thử làm những công việc mới. Hãy đi tiên phong; nếu cần hãy phá bỏ những tiền lệ.

Câu 4. Việc sử dụng bằng chứng trong câu văn Những bậc vĩ nhân làm nên lịch sử loài người đều là những người dám hành động, biết chấp nhận mất mát. có tác dụng gì trong văn bản?

Câu 5. Từ nội dung đề cập trong văn bản, hãy cho biết bài học về lẽ sống mà anh/chị tâm đắc nhất là gì? (Trả lời nhiều nhất từ 5 đến 7 dòng)

2
23 tháng 5
2. Bài văn nghị luận: Câu 1: Đoạn văn nghị luận về "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" (khoảng 200 chữ) Trong cuộc sống, sự an toàn và ổn định là điều mà ai cũng mong muốn. Tuy nhiên, nếu chỉ mãi quẩn quanh trong vùng an toàn, chúng ta sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để phát triển và khám phá bản thân. "Hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ" - đó là một lời khuyên quý giá, đặc biệt đối với những người trẻ. Dấn thân vào những điều mới mẻ không chỉ giúp chúng ta mở rộng kiến thức, tích lũy kinh nghiệm mà còn rèn luyện bản lĩnh, sự tự tin và khả năng thích ứng với những thay đổi của cuộc sống. Đôi khi, chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại, nhưng đó lại là những bài học vô giá giúp chúng ta trưởng thành hơn. Tuổi trẻ là thời gian để thử thách, để trải nghiệm và để khám phá. Đừng ngần ngại bước ra khỏi vùng an toàn, hãy can đảm dấn thân vào những điều mới mẻ để viết nên câu chuyện cuộc đời mình thật ý nghĩa và đáng nhớ. Câu 2: Bài văn phân tích cảm xúc, suy tư của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ của Lê Huy Mậu (khoảng 600 chữ) Đoạn thơ trích từ "Thời gian khắc khoải" của Lê Huy Mậu đã vẽ nên một bức tranh quê hương vừa bình dị, thân thương, vừa thấm đượm những suy tư, trăn trở của nhân vật trữ tình về quá khứ và hiện tại. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, hình ảnh quê hương hiện lên với vẻ nghèo khó, đơn sơ: "quê hương ta nghèo lắm". Tuy nhiên, đằng sau cái nghèo ấy lại là một tấm lòng nhân hậu, sẻ chia: "ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn / ta mổ lợn con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt". Những hành động nhỏ bé ấy thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên và những sinh vật bé nhỏ. Đặc biệt, câu thơ "cá dưới sông cũng có Tết như người trên bãi sông" đã nhân hóa loài vật, khẳng định sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên trong không gian làng quê. Tiếp theo, đoạn thơ khắc họa những sinh hoạt đời thường giản dị của người dân quê: "ta trồng cây cải tươi / ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật". Hình ảnh cây cải tươi xanh, bướm ong lượn lờ không chỉ gợi lên vẻ đẹp thanh bình của làng quê mà còn thể hiện sự trân trọng những gì mà thiên nhiên ban tặng. Câu thơ "lúa gặt rồi - còn lại rơm thơm / trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh..." đã tái hiện lại một cách chân thực cảnh thu hoạch lúa và cuộc sống thanh nhàn của con trâu sau vụ mùa. Đoạn thơ khép lại bằng những dòng suy tư, hồi tưởng của nhân vật trữ tình về quá khứ: "Cùng một bến sông phía dưới trâu đằm / phía trên ta tắm... / trong ký ức ta sao ngày xưa yên ổn quá chừng / một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." Hình ảnh bến sông quen thuộc gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm, yên ả. Từ láy "yên ổn" gợi lên cảm giác bình yên, thanh thản trong tâm hồn. Câu thơ cuối cùng "một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng!..." là một ẩn dụ về dòng chảy thời gian, dòng chảy ký ức và cả dòng chảy văn hóa của quê hương. Với ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức gợi, Lê Huy Mậu đã tái hiện lại một cách sinh động bức tranh quê hương và những cảm xúc, suy tư sâu lắng của nhân vật trữ tình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Đoạn thơ không chỉ là một khúc hát về quê hương mà còn là lời nhắn nhủ về sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống và tình yêu thương đối với quê hương, xứ sở.
23 tháng 5

Các bước thực hiện động tác vươn thở

  1. Tư thế chuẩn bị:
    • Đứng thẳng, hai chân mở rộng bằng vai, hai tay buông xuôi tự nhiên theo thân người.
  2. Bước 1:
    • Hít sâu, đồng thời đưa hai tay lên cao qua đầu, lòng bàn tay hướng vào nhau hoặc hướng ra phía trước.
  3. Bước 2:
    • Vươn người lên cao hết mức, có thể kiễng chân lên (nếu yêu cầu), giữ tư thế trong 1-2 giây.
  4. Bước 3:
    • Thở ra, đồng thời hạ hai tay xuống, trở về tư thế ban đầu.
  5. Lặp lại động tác theo nhịp hướng dẫn (thường 2-4 lần).

Lưu ý khi thực hiện:

  • Khi đưa tay lên thì hít vào, khi hạ tay xuống thì thở ra.
  • Động tác thực hiện nhẹ nhàng, nhịp nhàng, không gắng sức.
  • Giữ lưng thẳng, mắt nhìn thẳng về phía trước.


Đề thi đánh giá năng lực

đó chính là vâng


22 tháng 5

pro dg ngủ à


22 tháng 5

a

22 tháng 5

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

II. VIẾT (6,0 điểm)Câu 1 (2,0 điểm):Từ nội dung của phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc khám phá bản thân đối với tuổi trẻ hiện nay.Câu 2 (4,0 điểm):Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ sau: VỀ (Đàm Huy Đông) (1)Ta về cánh đồng mùa đôngNhững...
Đọc tiếp

II. VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm):

Từ nội dung của phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc khám phá bản thân đối với tuổi trẻ hiện nay.

Câu 2 (4,0 điểm):

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ sau:

VỀ

(Đàm Huy Đông) (1)

Ta về cánh đồng mùa đông

Những gốc rạ rạc khô vì gió

Ngày xưa theo mẹ ra đồng, nhổ từng gốc rạ

Bật tung hoàng hôn rơm rớm sương mờ


Ta về với vạt sông quê

Cha kéo vó vớt bóng người lam lũ

Mẹ bòn nhặt từng con tôm cái cá

Buộc mảnh đò gầy dưới bến ca dao.


Ta về góc vườn chim bói quả lao xao

Cụm xương rồng nở hoa từ gai góc

Lũ sẻ tha những cọng rơm vàng xây hạnh phúc

Đất trời, cây cỏ ru ta.


Về bên sông nơi tình đầu đi qua

Nghe sóng hát những lời đưa tiễn

Ta về phía cây cầu dải yếm (2)

Cởi câu ca trả lại cho người.

(Miền không có gió, Đàm Huy Đông, NXB Văn học, 2014, tr.25)

1
21 tháng 5

Chắc chắn! Dưới đây là gợi ý cho từng phần bài viết bạn cần:


Câu 1 (2 điểm): Đoạn văn nghị luận về ý nghĩa của việc khám phá bản thân đối với tuổi trẻ hiện nay (khoảng 200 chữ)

Gợi ý đoạn văn:

Khám phá bản thân là quá trình tìm hiểu, nhận thức sâu sắc về chính mình, bao gồm điểm mạnh, điểm yếu, sở thích và đam mê. Đối với tuổi trẻ hiện nay, việc khám phá bản thân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước những thay đổi nhanh chóng của xã hội và áp lực từ nhiều phía, chỉ khi hiểu rõ mình, các bạn trẻ mới có thể định hướng đúng đắn con đường học tập, nghề nghiệp và phát triển bản thân. Khám phá bản thân giúp các bạn tự tin hơn, biết lựa chọn những giá trị phù hợp và tránh những sai lầm không đáng có. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để xây dựng ý chí, nghị lực vượt qua thử thách và định hình tương lai tươi sáng. Vì vậy, mỗi bạn trẻ cần dành thời gian để tự khám phá bản thân mình một cách chân thành và sâu sắc, nhằm phát huy tối đa tiềm năng và đóng góp tích cực cho xã hội.


Câu 2 (4 điểm): Bài văn nghị luận phân tích tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ "Về" của Đàm Huy Đông (khoảng 600 chữ)

Gợi ý dàn ý và bài viết mẫu:

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về bài thơ "Về" của Đàm Huy Đông, một tác phẩm giàu cảm xúc về quê hương, gia đình và kỷ niệm tuổi thơ.
  • Nêu chủ đề phân tích: tâm trạng của chủ thể trữ tình khi trở về quê hương.

2. Thân bài:

  • Cảm xúc của chủ thể trữ tình:
    • Tràn đầy nỗi nhớ nhung, thương yêu đối với quê hương, gia đình, ký ức tuổi thơ.
    • Cảm giác bồi hồi, xúc động khi nhớ lại những hình ảnh giản dị, thân thương như cánh đồng mùa đông, gốc rạ, vạt sông quê, cha mẹ lam lũ.
    • Tâm trạng hoài cổ, xen lẫn niềm tự hào và trân trọng những giá trị truyền thống.
  • Các hình ảnh giàu biểu cảm:
    • "Những gốc rạ rạc khô vì gió" gợi lên sự khắc nghiệt nhưng gần gũi với tuổi thơ.
    • "Mẹ bòn nhặt từng con tôm cái cá" thể hiện sự vất vả, cần cù của cha mẹ.
    • "Góc vườn chim bói quả lao xao", "cụm xương rồng nở hoa từ gai góc" – biểu tượng của sự sống mãnh liệt, dù qua gian khó vẫn nở hoa.
    • Các hình ảnh tạo nên bức tranh quê hương sống động và đầy sức sống.
  • Tâm trạng hoài niệm và trân trọng:
    • Chủ thể trữ tình như muốn trở về, ôm ấp, giữ gìn những kỷ niệm và tình yêu thương ấy.
    • Câu kết "Cởi câu ca trả lại cho người" thể hiện sự tôn kính, muốn trao trả lại những gì mình đã nhận được từ quê hương.

3. Kết bài:

  • Khẳng định giá trị nghệ thuật và cảm xúc sâu sắc trong bài thơ.
  • Nêu cảm nhận cá nhân về sự gắn bó, tình yêu quê hương trong tâm hồn mỗi con người.

Bài viết mẫu:

Bài thơ “Về” của Đàm Huy Đông là một bức tranh tâm hồn đẹp đẽ và sâu lắng về quê hương, gia đình và những kỷ niệm tuổi thơ. Chủ thể trữ tình trong bài thơ mang một tâm trạng bồi hồi, nhớ nhung da diết khi trở về cánh đồng mùa đông, nơi có những gốc rạ khô và tiếng mẹ năm xưa. Cảm xúc ấy được thể hiện rõ qua hình ảnh giản dị mà gần gũi: “Những gốc rạ rạc khô vì gió”, “Mẹ bòn nhặt từng con tôm cái cá” gợi lên sự lam lũ, cần cù của cha mẹ, đồng thời khắc sâu tình yêu thương và sự gắn bó với mảnh đất quê hương.

Không chỉ có nỗi nhớ mà trong tâm trạng ấy còn ẩn chứa sự trân trọng những giá trị truyền thống và sức sống mãnh liệt của quê hương, được thể hiện qua hình ảnh “cụm xương rồng nở hoa từ gai góc”, biểu tượng cho sự kiên cường vượt qua khó khăn. Chủ thể trữ tình như muốn tìm lại chính mình trong những ký ức tuổi thơ, cảm nhận được sự gần gũi và ấm áp của mái nhà xưa.

Kết thúc bài thơ là câu “Cởi câu ca trả lại cho người” đầy ý nghĩa, thể hiện tâm hồn trân quý, biết ơn những giá trị đã nhận được từ quê hương, đồng thời gửi trả lại với tấm lòng yêu thương và kính trọng.

Qua bài thơ, ta cảm nhận rõ tâm trạng của chủ thể trữ tình – một người con luôn hướng về cội nguồn, gắn bó sâu sắc với quê hương dù cuộc sống có thay đổi ra sao. Đây cũng là lời nhắc nhở mỗi người hãy trân quý và giữ gìn những giá trị truyền thống, tình cảm gia đình thiêng liêng trong cuộc sống hiện đại.


Bạn muốn mình giúp mở rộng hay chỉnh sửa bài viết nào không?

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)Đọc đoạn trích: Cuộc phiêu lưu để tự khám phá bản thân không những lâu dài, mà phải lâu dài, vì không bao giờ ta hiểu hết được chính mình. Mỗi con người là một thế giới phong phú, phức tạp, chẳng có ai giống ai, phiên bản nào cũng là duy nhất. Thành thử, góc cạnh thú vị nhất của cuộc đời bạn không nên bị bỏ qua. Mình sẽ không bao giờ tới được, không...
Đọc tiếp

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Cuộc phiêu lưu để tự khám phá bản thân không những lâu dài, mà phải lâu dài, vì không bao giờ ta hiểu hết được chính mình. Mỗi con người là một thế giới phong phú, phức tạp, chẳng có ai giống ai, phiên bản nào cũng là duy nhất.

Thành thử, góc cạnh thú vị nhất của cuộc đời bạn không nên bị bỏ qua. Mình sẽ không bao giờ tới được, không bao giờ đạt được, bạn ạ. Có lẽ phải nghĩ rằng mình không bao giờ đạt được thì cuộc đời mới thực sự có ý nghĩa. Hãy đi tới và đi tới mãi, hãy tiến lên và tiến lên mãi, hãy học hỏi và học hỏi mãi. Và hãy cố tìm hiểu giới hạn của chính mình.

Bạn chớ mơ ước xem một trận bóng mà mới phút 30, đội bạn yêu thích đã dẫn trước với tỷ số 6 0. Nếu diễn ra đúng như vậy, 60 phút còn lại sẽ chán lắm. Cuộc đời cũng thế. Đến phút chót của cuộc đời, nhà bác học Albert Einstein vẫn than thở thiếu thời gian để học hỏi. Khi Steve Jobs biết mình chỉ còn vài tuần để sống, ông càng nghiên cứu các dự án của Apple ráo riết hơn nữa. Ông không quan tâm đến mấy chục tỷ đôla mình sở hữu (ông chẳng biết là bao nhiêu) mà ông không bao giờ đụng tới để tiêu. Chính vào lúc đó, ý nghĩa của cuộc đời mới hiện ra.

(Trích Một đời như kẻ tìm đường, Phan Văn Trường, NXB Trẻ, 2023, tr.134)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Chỉ ra những lí lẽ tác giả sử dụng để lí giải cho quan điểm Cuộc phiêu lưu để tự khám phá bản thân không những lâu dài, mà phải lâu dài.

Câu 2. Tác giả khuyên chúng ta nên có thái độ sống như thế nào trong quá trình khám phá bản thân?

Câu 3. Nêu tác dụng của việc sử dụng kiểu câu phủ định ở hai câu văn: Mình sẽ không bao giờ tới được, không bao giờ đạt được, bạn ạ. Có lẽ phải nghĩ rằng mình không bao giờ đạt được thì cuộc đời mới thực sự có ý nghĩa.

Câu 4. Nhận xét cách sử dụng các bằng chứng của tác giả trong đoạn trích.

Câu 5. Từ sự khẳng định của tác giả về ý nghĩa cuộc đời, anh/chị hãy rút ra những bài học về lẽ sống cho bản thân (trình bày trong khoảng 7 – 8 dòng). 

1
21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý chi tiết trả lời từng câu hỏi trong phần Đọc hiểu:


Câu 1: Chỉ ra những lí lẽ tác giả sử dụng để lí giải cho quan điểm “Cuộc phiêu lưu để tự khám phá bản thân không những lâu dài, mà phải lâu dài.”

  • Mỗi con người là một thế giới phong phú, phức tạp, không ai giống ai và mỗi người là phiên bản duy nhất.
  • Vì vậy, không bao giờ ta hiểu hết được chính mình.
  • Khám phá bản thân là một hành trình dài và không có điểm dừng, phải kéo dài suốt đời mới có ý nghĩa.

Câu 2: Tác giả khuyên chúng ta nên có thái độ sống như thế nào trong quá trình khám phá bản thân?

  • Luôn tiếp tục tiến lên, đi tới mãi, không ngừng học hỏi.
  • Không được tự mãn, không nghĩ rằng mình đã đạt được giới hạn của bản thân.
  • Phải kiên trì, bền bỉ trong việc tìm hiểu và khám phá giới hạn của chính mình.

Câu 3: Nêu tác dụng của việc sử dụng kiểu câu phủ định ở hai câu văn:

“Mình sẽ không bao giờ tới được, không bao giờ đạt được, bạn ạ.”
“Có lẽ phải nghĩ rằng mình không bao giờ đạt được thì cuộc đời mới thực sự có ý nghĩa.”

  • Câu phủ định làm nổi bật sự thật rằng hành trình khám phá bản thân là vô tận, không có điểm cuối.
  • Giúp nhấn mạnh quan điểm, tạo cảm giác sâu sắc, gây ấn tượng mạnh với người đọc.
  • Gợi mở ý tưởng rằng chính sự không hoàn hảo và không ngừng phấn đấu làm nên ý nghĩa của cuộc sống.

Câu 4: Nhận xét cách sử dụng các bằng chứng của tác giả trong đoạn trích.

  • Tác giả sử dụng các ví dụ minh họa rất cụ thể và sinh động như trận bóng đá (đội dẫn trước 6-0 sau 30 phút) để người đọc dễ hình dung và liên hệ.
  • Câu chuyện về Albert Einstein và Steve Jobs là bằng chứng thực tế, tạo sự thuyết phục cao khi nhấn mạnh ý nghĩa học hỏi và khám phá không ngừng ngay cả khi ở cuối đời.
  • Các bằng chứng vừa mang tính hình ảnh, vừa mang tính thực tiễn giúp làm rõ và củng cố luận điểm của tác giả.

Câu 5: Từ sự khẳng định của tác giả về ý nghĩa cuộc đời, anh/chị hãy rút ra những bài học về lẽ sống cho bản thân (khoảng 7 – 8 dòng).

Cuộc sống là một hành trình dài không ngừng học hỏi và khám phá bản thân. Tôi nhận thấy rằng không nên tự mãn với những gì mình đạt được mà cần luôn giữ tinh thần cầu tiến, không ngừng hoàn thiện mình. Việc chấp nhận rằng không thể đạt tới giới hạn cuối cùng giúp tôi có thêm động lực để cố gắng hơn mỗi ngày. Dù gặp khó khăn, thử thách, tôi sẽ kiên trì và không ngừng học hỏi như những nhà khoa học và doanh nhân thành đạt đã làm. Hơn hết, tôi hiểu rằng ý nghĩa cuộc đời không nằm ở việc sở hữu vật chất mà ở chính quá trình phấn đấu và trau dồi bản thân. Vì vậy, tôi sẽ sống tích cực, biết quý trọng thời gian và không ngừng khám phá chính mình.


Bạn muốn mình giúp viết chi tiết câu trả lời nào không?

Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ” của văn bản trong phần Đọc hiểu.Câu 2 (4,0 điểm) Trong chương trình Thủ tướng Chính phủ đối thoại với thanh niên Việt Nam năm 2025 (nhân dịp kỉ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/03/1931 – 26/03/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ lời...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ” của văn bản trong phần Đọc hiểu.

Câu 2 (4,0 điểm)

Trong chương trình Thủ tướng Chính phủ đối thoại với thanh niên Việt Nam năm 2025 (nhân dịp kỉ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/03/1931 – 26/03/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ lời khuyên quý giá: “Tuổi trẻ hãy nỗ lực vượt qua giới hạn của chính mình để không ngừng cống hiến, đóng góp cho quê hương, đất nước.”. Thế nhưng trong xã hội hiện nay, bên cạnh những bạn trẻ biết vượt qua giới hạn của chính mình để tạo ra các giá trị bền vững vẫn còn một số bạn trẻ phô trương bản thân để thu hút sự chú ý nhất thời.

Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.

3
20 tháng 5

Đề bài rất hay. Dựa vào cái này để cãi nhau được rồi

20 tháng 5

À nhầm. Ko cãi nhau đâu. Giải thích cho người ta hiểu thôi. Xin lỗi mọi người vì đã nhắn nhưng câu từ ko hay nhé 😖😖😖

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:ĐỜI KHỔ (Lược phần đầu: Năm 1961, vợ chồng nhân vật tôi được quân đội cấp cho một căn nhà nhỏ ở khu tập thể Phúc Xá, vùng đất nghèo ven sông Hồng. Dù điều kiện sống ban đầu còn thiếu thốn, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc với mái ấm đầu tiên của riêng mình. Những kỉ niệm giản dị như bữa cơm đầu...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

ĐỜI KHỔ

(Lược phần đầu: Năm 1961, vợ chồng nhân vật tôi được quân đội cấp cho một căn nhà nhỏ ở khu tập thể Phúc Xá, vùng đất nghèo ven sông Hồng. Dù điều kiện sống ban đầu còn thiếu thốn, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc với mái ấm đầu tiên của riêng mình. Những kỉ niệm giản dị như bữa cơm đầu tiên, tình làng nghĩa xóm bắt đầu hình thành đã trở thành kí ức đẹp đẽ không thể quên với nhân vật tôi. Trong dòng kí ức, nhân vật tôi nhớ đến chị Vách – một người hàng xóm tại khu tập thể.)

Chị Vách hơn tôi một con giáp, răng đen và vấn khăn. Chồng chị là thiếu tá ở một học viện chính trị, hơn tôi khoảng mươi mười lăm tuổi. Cấp thiếu tá ngày ấy là to lắm, là mơ ước gần như viển vông của đám thượng úy lau nhau. Tên ông thiếu tá là gì tôi không rõ, mặt ông tôi cũng quên, chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng rất đứng đắn, có thể rất tốt bụng, nhưng không làm một việc gì, nói một lời nào để dãy xóm được nhớ. Mỗi lần gặp tôi ở đường, một năm khoảng đôi ba lần, ông đều chào trước thân thiện và nhạt nhẽo: “Đồng chí khỏe không? Tốt chứ?”.

Với gia đình ấy vợ chồng tôi chỉ biết có chị Vách, ông thiếu tá chồng chị là ông Vách, các con chị một lũ lôi thôi, lốc thốc là con bà Vách. Chị Vách rất hợp chuyện với vợ chồng tôi, chị là người dưới quê mới theo chồng lên sống ở tỉnh, vợ tôi cũng thế. Chị là một cán bộ xã vùng địch hậu thời đánh Pháp, vợ tôi là du kích, rồi là dân công gùi gạo theo bộ đội suốt mấy chiến dịch. Hai chị em mỗi lần được ngồi với nhau là dứt không ra. Chuyện đàn bà không đầu không cuối nhưng chị Vách đã lên tiếng, mình lại chót dại để tai nghe là cứ phải nghe đến cùng. Hết cả đọc, hết cả viết. Vì nó vui lắm, buồn cười lắm, cười đến đau ruột, đến não lòng.

Tôi nói:

– Có một bà vợ vui tính như chị chắc ông ấy được cười cả ngày.

Chị Vách nói:

– Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. Ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô chính trị, không được chín chắn như các bà cán bộ ở tỉnh. Người ta có trình độ cao lỡ lấy phải vợ dại cũng là khổ tâm lắm. Thời trước thì họ đuổi mình ra đường rồi. Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hoá hèn, chị nói thế. Nên không bao giờ chị dám đi cùng chồng ra ngoài, đến thăm ai chồng đạp xe tới trước, vợ đi bộ tới sau, không xem hát, không xem chiếu bóng, chưa bao giờ tôi thấy vợ chồng họ đi sóng đôi cả. Mà chị đâu có xấu, là một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng. [...]

Chị Vách không biết chữ, đã là cán bộ phụ nữ xã mà không biết chữ, chỉ vạch được một chữ V thay chữ kí thôi. Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế. Chị đẻ hai đứa con gái đầu, ông chồng vắng nhà vì phải đi đánh giặc. Đẻ hai đứa con trai sau, ông chồng cũng vắng mặt nốt vì phải đi công tác. Chị sanh không được thuận vì đã lớn tuổi, lúc sát nhau, lúc băng huyết, chỉ có bạn bè tới thăm hỏi giúp đỡ, nằm dăm bảy ngày lại bò dậy ôm con ra viện, vài ngày sau đã giặt giũ cơm nước, da mặt vàng ủng nhưng nụ cười vẫn tươi tắn. Nghe chị nói nhà chị có sáu người nhưng hai mâm. Chồng một mâm, năm mẹ con một mâm riêng. Tiền nong chia đôi, tiêu cho chồng một nửa, năm mẹ con một nửa. Chị bảo, anh ấy phải làm việc trí óc nhiều, lại cao tuổi, lại lắm thứ bệnh không bồi dưỡng là nguy ngay. Còn năm mẹ con chị sao cũng được, nông dân vốn nuôi dễ. Tôi nói: “Bà cứ bày vẽ, ông ấy không là nông dân thì là cái gì, là trí thức hả?”. Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi.”. Tôi hỏi: “Ông ấy cũng được đi học à?”. Chị có vẻ giận: “Con địa chủ không được đi học thì ai được học. May mà ông bố đã phá tan hết cơ nghiệp, nếu không cũng bị đấu hồi cải cách rồi.”. [...]

Chị Vách không biết chữ nên chị làm cấp dưỡng một bếp ăn tập thể của quân đội. Chị đi làm rất sớm và về rất muộn. Khi đi gánh đôi thùng không, khi về một bên là nước vo gạo, một bên là cơm thừa của bếp ăn tập thể. Cơm nước lợn gà, hầu bố và trông các em trong một ngày chị đều phó mặc cho đứa con gái đầu. Một người vác cái cày bảy người vác muỗng như chị thường nói. Năm tôi về ở Phúc Xá thì đứa con gái lớn của chị đã mười bốn, mười lăm tuổi. Con bé không được xinh, da đen, chân tay lòng khòng, cả ngày không nghe nó nói một câu, cứ lầm lì làm, hết làm thì lầm lì đứng một góc giương mắt nhìn xung quanh. Giống tính ông bố như hệt, nhưng nó không được học như bố nó, biết đọc biết viết là thôi vì đông em quá. Tôi hỏi chị Vách: “Tại sao chị không cho cháu đi học?”.

Chị nói:

– Con gái cần gì học nhiều.

– Ông ấy không bắt nó đi học à?

Lại thêm một dịp để chị khoe chồng:

– Về đến nhà là vùi đầu vào đọc sách đọc báo, không hỏi đến vợ con được một câu.

Tôi cười to: “Ông ấy cũng sướng nhỉ, sướng nhất khu đấy.”. Chị cũng cười: “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”. Nói đến thế là hết.

(Lược phần cuối: Sau nhiều năm rời khu tập thể, nhân vật tôi trở lại thăm nơi này và chứng kiến cuộc sống của chị Vách càng khốn khó hơn: ông chồng mất, hai đứa con gái quá lứa lỡ thì không lấy chồng, một đứa con trai ngẩn ngơ điên dại. Lương hưu thấp nên dù đã bảy mươi tuổi chị Vách vẫn phải vất vả mưu sinh, làm xôi bán để có thêm tiền lo cho các con. Chị tự nhận vì mình ngu đần, vụng dại nên con cái mới vậy, nếu chồng chị còn sống thì chúng nó đâu đến nỗi. Suy nghĩ của chị khiến nhân vật tôi cổ tắc nghẹn lại, muốn bật khóc.)

(Nguyễn Khải, Đời khổ, in trong Tuyển tập Nguyễn Khải, NXB Văn hoá thông tin, 2014, tr. 190 – 192)

* Chú thích: Sát nhau (hay sót rau): chỉ tình trạng sót nhau thai sau khi sinh con – một biến chứng sản khoa nguy hiểm.

Câu 1. Xác định ngôi kể và điểm nhìn của truyện ngắn trên.

Câu 2. Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của chị Vách.

Câu 3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ liệt kê trong các câu văn sau: “Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế.”.

Câu 4. Nêu vai trò của chi tiết “Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi”.”.

Câu 5. Từ câu nói của chị Vách “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”, anh/ chị suy nghĩ gì về cách để con người vượt qua khi phải đối diện với những nhọc nhằn, vất vả trong cuộc sống?

3
20 tháng 5

Bài này cũng hay như bài trước

20 tháng 5

Cô kết bạn với em đi ạ! Em muốn đọc thêm nhiều văn thơ lắm á 😁😁😁

21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý làm bài cho hai câu hỏi của bạn:


Câu 1: Viết đoạn văn cảm nhận về hình ảnh mẹ Hải âu (khoảng 200 chữ)

Hình ảnh mẹ Hải âu trong văn bản hiện lên thật gần gũi, thân thương và đầy tình mẫu tử thiêng liêng. Mẹ Hải âu không chỉ là người dẫn dắt, bảo vệ mà còn là biểu tượng của sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Dù biết rằng con sẽ phải đối mặt với bao hiểm nguy khi lao xuống biển rộng lớn, mẹ vẫn kiên nhẫn dạy dỗ, truyền cho con sức mạnh và niềm tin vào cuộc sống. Hình ảnh mẹ Hải âu không chỉ thể hiện sự lo lắng, quan tâm mà còn là nguồn động viên tinh thần lớn lao, giúp con vững bước trên hành trình trưởng thành. Qua đó, tác giả đã khắc họa một cách sinh động tình mẫu tử thiêng liêng, đồng thời gửi gắm thông điệp về sự dấn thân và tự lập trong cuộc đời mỗi người. Mẹ Hải âu chính là biểu tượng của sự che chở và khích lệ để con tự tin bay xa, tự mình khám phá thế giới rộng lớn.


Câu 2: Bài văn nghị luận về ý nghĩa của việc dấn thân và tự lập trong hành trình trưởng thành (khoảng 600 chữ)

Mở bài:

Trong bài thơ “Lời của chim hải âu”, Nguyễn Đình Tâm đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc về hành trình trưởng thành của con người, đặc biệt là những người trẻ: phải dấn thân và tự lập để có thể sống thật sự, sống có ý nghĩa. Những câu thơ “con phải lao xuống biển / có thể gặp vô vàn hiểm nguy / nhưng con phải sống / con sẽ sống / và con tự sống” đã khắc họa rõ nét tinh thần ấy.

Thân bài:

Trước hết, việc dấn thân là bước đi đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình trưởng thành. Dấn thân có nghĩa là không ngại khó khăn, thử thách, dám đối mặt với những nguy hiểm, rủi ro để khám phá và chinh phục thế giới. Giống như chim hải âu phải lao xuống biển rộng lớn đầy sóng gió, mỗi người trẻ cũng cần mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân, không ngừng học hỏi, trải nghiệm để phát triển năng lực và bản lĩnh. Nếu chỉ đứng yên một chỗ, ta sẽ mãi không thể trưởng thành và hoàn thiện chính mình.

Tiếp theo, tự lập là yếu tố then chốt giúp mỗi người trẻ xây dựng cuộc sống độc lập, tự chủ và có trách nhiệm. Tự lập không chỉ là khả năng tự lo cho bản thân về vật chất mà còn là sự tự tin trong tư duy, trong các quyết định và hành động của mình. Khi tự lập, người trẻ sẽ biết cách giải quyết khó khăn, vượt qua thử thách mà không phụ thuộc vào người khác. Điều này giúp họ trưởng thành toàn diện về mặt nhân cách và tinh thần.

Hơn nữa, dấn thân và tự lập còn giúp người trẻ hình thành ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và khả năng thích nghi với môi trường sống luôn biến đổi. Trong xã hội hiện đại đầy biến động, chỉ có những người biết dấn thân và tự lập mới có thể vững vàng, phát triển và đóng góp tích cực cho cộng đồng. Đây cũng chính là nền tảng để họ xây dựng một cuộc đời ý nghĩa, thành công và hạnh phúc.

Kết bài:

Tóm lại, dấn thân và tự lập là hai yếu tố không thể thiếu trong hành trình trưởng thành của mỗi người trẻ. Qua hình ảnh chim hải âu lao xuống biển, Nguyễn Đình Tâm đã truyền cảm hứng mạnh mẽ về tinh thần dám sống, dám đương đầu với thử thách và tự mình làm chủ cuộc đời. Mỗi người trẻ hãy luôn ghi nhớ và thực hành thông điệp ấy để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình, góp phần xây dựng tương lai tươi sáng.


Nếu bạn cần, tôi có thể giúp bạn chỉnh sửa hoặc mở rộng bài viết theo yêu cầu cụ thể hơn.


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU Không có một loài chim nào tự đẩy con mình                               từ vách núi cao xuống biển Con yêu thương chỉ có mẹ Hải âu thôi đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm con đừng rúc vào ngực mẹ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ con...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU

Không có một loài chim nào tự đẩy con mình
                               từ vách núi cao xuống biển
Con yêu thương
chỉ có mẹ Hải âu thôi
đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ấm
con đừng rúc vào ngực mẹ
đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ
con phải lao xuống biển
có thể gặp vô vàn hiểm nguy
nhưng con phải sống
con sẽ sống
và con tự sống
đó là bản năng tự tin của lòng dũng cảm
là môi trường sống duy nhất của con
của loài Hải âu chúng ta
nơi đó sẽ có những ngư dân
có những người thủy thủ
bạn tốt của chúng ta
họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm
họ yêu quý con bằng tình yêu biển cả
nơi đó con có cả bầu trời tự do
thoả niềm đam mê, khao khát

Nào, con yêu thương của mẹ!
bắt đầu nhé
lao xuống
tung cánh ra
đập cánh
Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu

(Nguyễn Đình Tâm, viết & đọc, chuyên đề mùa hè 2024, NXB Hội Nhà văn, 2024, trang 233)

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2. Theo văn bản, mẹ Hải âu có hành động gì khác biệt so với các loài chim khác?

Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về lời của mẹ Hải âu qua các dòng thơ: “con đừng rúc vào ngực mẹ/ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ/ con phải lao xuống biển?”.

Câu 4. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong dòng thơ: “họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm”.

Câu 5. Ý thơ “Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu” gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì? (trả lời khoảng 5 – 7 dòng)

4
20 tháng 5

Cũng hay

20 tháng 5

trả lời chứ sao lại hay ?


19 tháng 5

Content words main verbs, noun, adjectives and adverbs are often stress, while grammatical words conjunction, pronoun, preposition, auxiliaries verbs and article are not.

20 tháng 5

hi