K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản sau: Thần Lửa A Nhi Thần Lửa A Nhi là một trong những vị thần lớn nhất và lâu đời nhất của Ấn Độ. Thần rất cao lớn, da thịt đỏ au, có bẩy cánh tay màu sắc như cầu vồng, lưỡi dài và lanh lẹ lạ thường. Chính thần đã tung lên trời quả cầu lửa sưởi ấm cho chúng ta, nung chín cây, lúa, đỗ, ngày ngày soi sáng cho chúng ta làm ăn. Chính thần thắp các vì sao lên, nếu...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

Thần Lửa A Nhi

Thần Lửa A Nhi là một trong những vị thần lớn nhất và lâu đời nhất của Ấn Độ. Thần rất cao lớn, da thịt đỏ au, có bẩy cánh tay màu sắc như cầu vồng, lưỡi dài và lanh lẹ lạ thường.

Chính thần đã tung lên trời quả cầu lửa sưởi ấm cho chúng ta, nung chín cây, lúa, đỗ, ngày ngày soi sáng cho chúng ta làm ăn. Chính thần thắp các vì sao lên, nếu không đêm tối sẽ sâu thẳm và rùng rợn biết bao. Thần có phép phân thân nên thần ở khắp mọi nhà, vào bếp nấu thức ăn, đốt đèn rọi trang sách. Không có thần ở trong nhà, con người sẽ đói, rét, sợ sệt, sống không khác gì loài cầm thú.

Thần có tính nóng vội, lại phải ở khắp nơi, không coi xuể công việc, nên đôi lúc vô tình gây thiệt hại cho sinh linh và hoa cỏ.

Một hôm thần Lửa A Nhi giúp người đốt cỏ dại ở ven rừng. Mải lo đi giúp nơi khác nữa, thần không về dập lửa kịp thời, nên lửa cháy vào rừng, lan rộng ra nhanh chóng. Trong rừng có năm mẹ con chim Đầu Rìu. Chim mẹ kêu than: “Con mình chưa biết bay, phen này mẹ con chắc bị thiêu sống!”.

Bỗng chim mẹ nghĩ được một kế cứu con:

- Các con ơi đằng kia có cái hang chuột. Các con hãy vào đấy, mẹ sẽ khoả cát lên lấp kín, khi lửa tắt mẹ sẽ đến đón các con.

- Nhưng mẹ ơi - một con chim thưa - con chuột to lắm, nó sẽ ăn thịt chúng con mất!

- Không đâu, bé yêu ạ! Con chuột ở cái hang này đã bị diều hâu bắt mất rồi, chính mẹ trông thấy.

- Còn có những con chuột khác, mẹ ạ! - Một con chim nữa nói - Bị chuột ăn thì đau đớn và nhục nhã quá! Mẹ ơi, thà chết thiêu còn hơn!

 - Bị thiêu nóng lắm, các con ạ! Chỉ có một cách là mẹ xòe hai cánh ra ấp các con dưới bụng, che lửa cho các con. Mẹ sẽ chết cháy còn các con may chăng sống sót.

- Không, không mẹ ơi! Không đời nào!

Bốn chú chim con đồng thanh kêu lên. Rồi chú khôn nhất nói:

- Nếu mẹ chết thì chúng con cũng sẽ chết đói, chết khát thôi. Và họ Đầu Rìu nhà ta sẽ tuyệt giống, tuyệt nòi. Mẹ còn trẻ lắm. Thoát nạn này mẹ sinh một lũ em… Mẹ hãy bay đi, bay nhanh đi, lửa đến rồi! Chúng con van mẹ!

- Mẹ trốn một mình sao đành chứ ?

- Trốn đi, trốn đi mẹ ơi! - Bốn chú chim con lại đồng thanh kêu lớn:

- Bay nhanh đi, nếu không chúng con đâm đầu vào lửa cho mà xem!

Mấy con chim con vỗ lạch bạch những đôi cánh chưa có lông sắp xông vào lửa. Chim mẹ hoảng quá, đành phải bay đi.

Bấy giờ, bốn anh em chụm đầu vào nhau kêu cầu thần Lửa.

- Thần Lửa A Nhi quảng đại ơi! Chúng con hiện nay mất mẹ, lát nữa sẽ mất xác? Rồi mẹ chúng con sẽ vì xót xa mà chết héo chết khô. Chỉ có ngài là cứu được chúng con. Hỡi A Nhi nhân hậu!

Bỗng có tiếng vang vọng từ xa:

- Các con đừng lo sợ! Tai họa sắp qua rồi. Và mẹ các con sẽ về với các con.

Đó là tiếng của thần Lửa. Thần đã trở về và kịp nghe tiếng kêu thảm thiết của mấy chú chim con. Thần dập tắt ngay ngọn lửa hung dữ, liền đó chim Đầu Rìu mẹ cũng bay về.

Cảm tạ thần A Nhi nhân hậu, năm mẹ con nhuộm đỏ chùm lông vũ của mình, ngụ ý thờ thần Lửa ở trên đầu.

                                                                                                                          (Theo Thần thoại Ấn Độ)

           Viết bài văn khoảng 500 chữ nêu cảm nhận của anh /chị về nhân vật thần Lửa A Nhi  trong câu chuyện thần thoại trên.

2
30 tháng 11 2022

Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

    Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

    Cảm nhận về nhân vật trong câu chuyện Thần Lửa A Nhi

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

    Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý:

* Tóm tắt cốt truyện theo nhân vật chính

* Cảm nhận cụ thể về nhân vật:

- Đặc điểm của thần Lửa:

+ Hình dáng, tầm vóc: Thần Lửa A Nhi có tầm vóc khổng lồ, kì vĩ, vẻ đẹp độc đáo (Thần rất cao lớn, da thịt đỏ au, có bẩy cánh tay màu sắc như cầu vồng, lưỡi dài và lanh lẹ lạ thường).

+ Tính cách: 

  • Thần chăm chỉ và yêu thương các sinh vật, chăm lo cho sự sống trên trái đất 

Ø  Chính thần đã tung lên trời quả cầu lửa sưởi ấm;nung chín cây, lúa, đỗ, ngày ngày soi sang cho con làm ăn. Chính thần thắp các vì sao lên, nếu không đêm tối sẽ sâu thẳm và rùng rợn, ở khắp mọi nhà, vào bếp nấu thức ăn, đốt đèn rọi trang sách. Không có thần ở trong nhà, con người sẽ đói, rét, sợ sệt, sống không khác gì loài cầm thú).

Ø  Hay đi giúp người (Thần giúp người đốt cỏ và mải đi giúp nhiều  người khác).

Ø  Nghe tiếng cầu cứu thống thiết của bốn anh em chim Đầu Rìu con, thần A Nhi đã kịp thời xuất hiện và dập tắt đám cháy, cứu sống gia đình nhà Đầu Rìu.

  • Thần có tính nóng vội và giúp nhiều người cùng lúc nên không làm xuể công việc và đã gây hậu họa.    

-> Thần Lửa vừa phi thường vừa gần gũi, đời thường.  

+ Tài năng và công việc:

  • Có khả năng làm những việc siêu nhiên để giúp loài người duy trì sự sống: tạo mặt trời, ánh sáng của các vì sao để chiếu sáng cho thế gian, nấu chín thức ăn.
  • Có phép phân thân để làm nhiều việc cùng lúc nên thần ở khắp mọi nhà, vào bếp nấu thức ăn, đốt đèn rọi trang sách.

- Cơ sở hình thành sự tưởng tượng của người Ấn Độ xưa về thần Lửa:

+ Bắt nguồn từ những trải nghiệm trong cuộc sống lao động, sinh hoạt, người Ấn độ xưa nắm bắt những đặc điểm nổi bật của lửa để hình dung, tưởng tưởng hình tương thần Lửa: lửa màu đỏ, bén rất nhanh nên họ hình dung thần Lửa cao lớn, da thịt đỏ au, có bảy cánh tay màu sắc như cầu vồng, lưỡi dài và lanh lẹ lạ thường; mặt trời, mặt trăng đều phát sáng nên được hình dung chúng do thần Lửa tạo ra; Lửa vừa đem lại lợi ích, vừa gây họa cho con người được người xưa lí giải do Thần Lửa không coi xuể công việc, nên đôi lúc vô tình gây thiệt hại cho sinh linh...

+ Người Ấn Độ xưa với thế giới quan “vạn vật hữu linh” đã  hình dung; trao cho lửa tính cách, hành động như con người.

- Ý nghĩa của hình tượng thần Lửa A Nhi:

+ Phản ánh nhận thức của con người nguyên thủy về thế giới tự nhiên: giải thích các hiện tượng tự nhiên (mặt  trời, sao, lửa, cháy rừng, chim Đầu Rìu có chòm lông đỏ trên đầu). 

+ Phản ánh quan niệm “vạn vật hữu linh” của người nguyên thủy . Vì cho rằng vạn vật đều có linh hồn nên người  xưa đã nhân hóa lửa thành vị thần và trao cho thần công việc kiến tạo thế giới.

+ Gi gắm khát vọng chinh phục thiên nhiên, sáng tạo thế giới , đem lại cuộc sống hữu ích cho con người của người nguyên thủy  (quá trình tìm ra lửa,tạo ta ánh sáng xua bóng đêm, dập nạn cháy rừng, giúp nấu chin thức ăn...).

+ Phản ánh vẻ đẹp riêng của tín ngưỡng, văn hóa của cộng đồng Ấn Độ xưa: đề cao vai trò quan trọng của thần Lửa, vị thần tối linh trong văn hóa, tín ngướng của người Ấn Độ , chỉ đứng sau thần Sấm, Sét; vì  dù ở thiên đường, hạ giới hay không trung đều cần có hơi ấm của thần Lửa A Nhi để sinh sôi, tồn tại và phát triển.

* Đánh giá chung: 

- Nghệ thuật khắc họa hình tượng Thần Lửa A Nhi:

+ Nhân hóa, gán cho hiện tượng tự nhiên (lửa) tính khí,  thói quen,  hành động của con người.

+ Thủ pháp cường điệu, phóng đại.

+ Sử dụng các chi tiết tưởng tượng, hư cấu, hoang đường (tung quả cầu lửa để sưởi ấm cho loài người, thắp sáng các vì sao, phân thân  làm nhiều việc) để thể hiện tài năng, sức mạnh của thần Lửa A Nhi; lí giải các hiện tượng tự nhiên: mặt trời có sức nóng, mặt trăng chiếu sáng... hoặc giải thích các hiện tượng (cháy rừng).

- Nội dung:

+ Qua nhân vật  thần Lửa A Nhi, có thể thấy được trí tưởng tượng phong phú của người xưa trong việc giải thích hiện tượng tự nhiên; đồng thời phản ánh vẻ đẹp riêng của cuộc sống lao động, tín ngướng và văn hóa cộng đồng Ấn Độ.

+ Nhân vật cũng đem lại cho con người hôm nay bài học về lòng thương người và sự cẩn trọng, đúng lúc khi giúp người.

+ Nhân vthần Lửa A Nhi góp phần làm nên vể đẹp “một đi không trở lại” của thần thoại Ấn Độ.

d. Chính tả, ngữ pháp

    Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt.

e. Sáng tạo

   Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ, sáng tạo.

 
1 tháng 10 2024

nêu những sự kiện của văn bản trên

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới: Nắng mới Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác, gà trưa gáy não nùng, Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng Chập chờn sống lại những ngày không.   Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời Lúc người còn sống, tôi lên mười; Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.   Hình dáng me tôi chửa xóa mờ Hãy...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:

Nắng mới

Mỗi lần nắng mới hắt bên song,

Xao xác, gà trưa gáy não nùng,

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không.

 

Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười;

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,

Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.

 

Hình dáng me tôi chửa xóa mờ

Hãy còn mường tượng lúc vào ra;

Nét cười đen nhánh sau tay áo

Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.

(Lưu Trọng Lư, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1998, trang 288)

Lựa chọn  phương án trả lời đúng nhất cho các câu hỏi từ 1 đến 7:

Câu 1. Nhân vật trữ tình trong bài thơ Nắng mới là ai?

A. Nắng mới

C. Người mẹ

B. Tôi

D. Con gà

Câu 2. Bài thơ được viết theo thể thơ gì?

A. Lục bát

C. Bài luật

B. Thất ngôn bát cú

D. Thất ngôn

Câu 3. Cho biết hoàn cảnh làm nảy sinh tâm trạng nhớ thương của nhân vật trữ tình.

A. Khi “nắng mới hắt bên song”.

B. Khi nghe tiếng “xao xác, gà trưa gáy não nùng”.

C. Mỗi khi nhìn thấy nắng đầu mùa báo hiệu kết thúc những ngày lạnh ẩm, nghe tiếng gà trưa xao xác gợi lại dĩ vãng khi xưa, mỗi lúc như thế mẹ thường mang áo ra phơi.

D. Mỗi khi nhớ lại dĩ vãng năm xưa có mẹ

Câu 4. Những từ ngữ nào biểu hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình?

A. Xao xác, não nùng, rượi buồn, chập chờn, nhớ.

B. Xao xác, não nùng, buồn, sống lại, mường tượng.

C. Xao xác, não nùng, rượi buồn, mường tượng, cười.

C. Xao xác, não nùng, rượi buồn, mường tượng, cười

Câu 5. Người mẹ hiện lên trong tâm tưởng của nhân vật tôi với những hình ảnh nào?

A. Áo đỏ người đưa trước dậu phơi; Hãy còn mường tượng lúc vào ra

B. Áo đỏ người đưa trước dậu phơi; Nét cười đen nhánh sau tay áo

C. Người phơi áo trước dậu, người mẹ thủa thiếu thời

D. Lúc người còn sống, lúc vào ra

Câu 6. Anh/chị hiểu nắng mới trong bài thơ là gì?

A. Ánh nắng tinh khôi, đầu tiên của một ngày mới.

B. Ánh nắng đầu mùa báo hiệu đã hết những ngày lạnh, ẩm.

C. Ánh nắng rực rỡ buổi trưa hè.

D. Ánh nắng hiu hắt, yếu ớt cuối mùa.

Câu 7. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là gì?

A. Hoài niệm về quá khứ tươi đẹp.

B. Ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng.

C. Nỗi nhớ thương tha thiết với người mẹ thân yêu.

D. Nỗi buồn, sự cô đơn, trống vắng trong thực tại.

Trả lời câu hỏi/ thực hiện yêu cầu:

Câu 8. Những từ láy được sử dụng trong bài thơ có tác dụng gì trong việc biểu hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình?

Câu 9. Anh/chị hiểu như thế nào về câu thơ “Nét cười đen nhánh sau tay áo”?

Câu 10. Nêu cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong ký ức của nhân vật “tôi” bằng một đoạn văn 7-10 câu.

3
30 tháng 11 2022

  loading...  loading...  loading...  loading...  loading...  loading...  loading...  loading...    

30 tháng 11 2022

câu 1: C   câu 5: A

câu 2: B   câu 6: B

câu 3: C   câu 7: C

câu 4: A   câu 8: 

Các từ láy đó là: xao xác, não nùng, chập chờn, mường tượng

-  Tác dụng:

+ Biểu hiện trực tiếp, sinh động tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình.

+ Gợi nỗi buồn trong hiện tại, nỗi nhớ về dĩ vãng với hình ảnh người mẹ thân yêu.

Câu 9:

Câu thơ gợi lên nét cười tươi tắn, rạng rỡ, ấm áp với hàm răng được nhuộm đen bóng (một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa) và rất duyên dáng (vì nụ cười được che phần nào sau tay áo) của mẹ.

Câu 10:Trong kí ức của nhân vật “tôi”, hình ảnh người mẹ hiện lên rất sắc nét, gần gũi, thân thương. Mẹ đi xa khi “tôi” còn nhỏ  tuổi. Những kí ức của “tôi” về mẹ vẫn như mới hôm qua. Có lẽ, hình ảnh “áo đỏ người đưa trước dậu phơi” cùng với “nét cười đen nhánh sau tay áo” đã là những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong tâm trí “tôi”. Mẹ là người phụ nữ tươi duyên, hiền hậu. Mẹ chịu thương chịu khó và lạc quan… Kí ức đẹp đẽ đó không bao giờ có thể phai nhạt.  Tình cảm của nhân vật tôi đối với mẹ vô cùng tha thiết, sâu nặng.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong đoạn thơ sau. Từ đó, làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thơ ca trung đại.                                         Quanh năm buôn bán ở mom sông,                                         Nuôi đủ năm con với một chồng.                                         Lặn lội thân...
Đọc tiếp

Phân tích hình ảnh bà Tú trong đoạn thơ sau. Từ đó, làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thơ ca trung đại.

                                        Quanh năm buôn bán ở mom sông,

                                        Nuôi đủ năm con với một chồng.

                                        Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

                                        Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

                                        Một duyên hai nợ âu đành phận,

                                        Năm nắng mười mưa dám quản công.

(Thương vợ - Trần Tế Xương - Sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1,

NXB Giáo dục, trang 29)

0
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Một vận động viên marathon người Nhật Bản từng vô địch thế giới vào năm 1984 và 1986 đã kể về phương thức phân chia mục tiêu trong cuốn tự truyện của mình: “Trước khi thi đấu, tôi đều phóng xe đi tìm hiểu khảo sát quãng đường thi đấu và ghi lại những cột mốc dễ nhận thấy, ví dụ như cột mốc đầu tiên là ngân hàng, cột mốc thứ...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Một vận động viên marathon người Nhật Bản từng vô địch thế giới vào năm 1984 và 1986 đã kể về phương thức phân chia mục tiêu trong cuốn tự truyện của mình: “Trước khi thi đấu, tôi đều phóng xe đi tìm hiểu khảo sát quãng đường thi đấu và ghi lại những cột mốc dễ nhận thấy, ví dụ như cột mốc đầu tiên là ngân hàng, cột mốc thứ hai là một cây cổ thụ, cột mốc thứ ba là tòa nhà màu đỏ. Cứ như vậy cho đến hết chặng đua. Khi bắt đầu cuộc đua, tôi sẽ dồn hết tốc lực để chinh phục từng cột mốc, qua mỗi cột mốc tôi lại có thêm động lực để chinh phục các cột mốc tiếp theo, cho đến khi về đích. Ban đầu, tôi chưa biết tới điều này, tôi luôn đặt ra cho mình một mục tiêu duy nhất đó là cái đích cuối cùng, và kết quả là chạy được khoảng hơn 10km là tôi đã cảm thấy đuối sức. Ý chí của tôi đã bị cả chặng đường dài phía trước quật ngã.”

Giống như những gì vận động viên đó nói, ưu điểm của việc phân chia mục tiêu là: thứ nhất, nó khiến cho mục tiêu lớn tưởng chừng như xa vời trở nên thiết thực và dễ nắm bắt hơn. Khi tâm lý tin tưởng rằng mục tiêu đó có thể thực hiện đươc, thì hành động của bạn sẽ không bị chi phối bởi nỗi sợ thất bại. Có rất nhiều nguyên nhân khiến chúng ta chần chừ khi làm một việc gì đó, trong đó việc đặt ra mục tiêu quá cao, khiến chính mình sợ hãi là một trong những nguyên nhân lớn nhất. Thực hiện việc phân chia mục tiêu chính là một phương thức để giảm thiểu hoặc phòng tránh sự trì trệ do tâm lý sợ hãi thất bại gây ra. Phân chia mục tiêu còn giúp bạn có thêm niềm tin khi thực hiện. Khi thấy mục tiêu hoàn toàn nằm trong tầm với, bạn sẽ cảm thấy tự tin. Không cần phải nói, hẳn ai cũng hiểu sự tự tin có tác dụng quan trọng như thế nào đối với việc hoàn thành mục tiêu trong cuộc sống.

(Trích Sống chậm lại rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi,

Alpha book biên soạn, NXB Lao động xã hội)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên?

Câu 2. Theo lời kể của Một vận động viên marathon người Nhật Bản, anh/ chị hiểu việc phân chia mục tiêu và mục tiêu duy nhất khác nhau ở điểm nào?

Câu 3. Tại sao có thể nói: Khi thấy mục tiêu hoàn toàn nằm trong tầm với, bạn sẽ cảm thấy tự tin?

Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với câu nói: Ý chí của tôi đã bị cả chặng đường dài phía trước quật ngã. Nêu rõ lí do tại sao.

0
Phân tích tâm trạng nhân vật trừ tình trong bài thơ: Phiên âm: Trường sa phục trường sa Nhất bộ nhất hồi khước. Nhật nhập hành vị dĩ, Khách tử lệ giao lạc. Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông, Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng! Cổ lại danh lợi nhân, Bôn tẩu lộ đồ trung. Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu, Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng. Trường sa, trường sa, nại cừ...
Đọc tiếp

Phân tích tâm trạng nhân vật trừ tình trong bài thơ:

Phiên âm:

Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng!
Cổ lại danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng.
Trường sa, trường sa, nại cừ hà?
Thản lộ mang mang úy lộ đa.
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca,
Bắc sơn chi bắc, sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?

Dịch nghĩa

Bãi cát dài, lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời lặn mà vẫn còn đi.
Khách (trên đường) nước mắt lã chã rơi.
Anh không học được ông tiên có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!
Xưa nay hạng người danh lợi,
Vẫn tất tả ở ngoài đường sá.
(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon,
(Thì) người tình thường ít mà người say vô số!
Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?
Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều.
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam sống muôn đợt.
Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?

Dịch thơ

Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dùng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?

 (Bài ca ngắn đi trên bãi cát, Cao Bá Quát,

Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.42)

0
Đọc bài thơ sau: Qua đèo Ba Dội (Hồ Xuân Hương) Một đèo một đèo lại một đèo, Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu. Lắt lẻo cành thông cơn gió lốc, Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo. Hiền nhân quân tử ai là chẳng, Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo  (Trích Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên, NXB Văn học, 2004, tr.98) Thực hiện các yêu...
Đọc tiếp

Đọc bài thơ sau:

Qua đèo Ba Dội

(Hồ Xuân Hương)

Một đèo một đèo lại một đèo,
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió lốc,
Đầm đìa lá liễu hạt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

 (Trích Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên,

NXB Văn học, 2004, tr.98)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của bài thơ.

Câu 2. Cảnh đèo Ba Dội được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh nào?

Câu 3. Nêu hiệu quả của phép điệp trong câu thơ:

Một đèo một đèo lại một đèo

Câu 4. Tâm sự của tác giả trong hai câu thơ: Hiền nhân quân tử ai là chẳng / Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo gợi cho anh chị suy nghĩ gì?

0
2 tháng 12 2022

loading...  loading...  loading...  loading...  

1 tháng 12 2022

Nhắc tới Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác của ông về mùa thu. Trong đó có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm.Bài thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Khuyến bước lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, sẽ không ai có thể quên, khi nhắc tới thơ về mùa thu Việt Nam, Thu Điếu là một trong 3 bài thơ đặc sản của thơ văn viết về mùa thu.

Mọi cảnh vật quen thuộc hiện ra, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, ngập nước với ao hồ, bờ tre bao bọc-một biểu tượng quen thuộc của làng quê Việt Nam.

Được mệnh danh là một nhà thơ của làng cảnh Việt Nam,ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến đặc biệt là Thu điếu đã trở thành một trong những bức tranh mùa thu đặc sắc của văn học Việt Nam. Vẻ đẹp của mùa thu được thi vị hóa, trở thành một bức tranh độc đáo. Giống như mọi thứ đang diễn ra trước mắt, hình ảnh nước trong veo, mặt hồ phẳng lặng là những đặc trưng của mùa thu

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Mỗi khung cảnh mỗi nét thơ cho ta một vẻ độc đáo riêng,mỗi cảnh có một sự thể hiện riêng nhưng có một sự thật không thể phủ nhận đó chính là mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều mang một dáng vẻ riêng. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. Những hình ảnh trong sáng những đường nét mang chi tiết gợi rất lớn khiến cho bài thơ càng thêm có hồn.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh nước và con người pha trộn giữa cảnh thiên nhiên đó. Tuy không chủ động nói tới con người giữa khung cảnh mùa thu đó, nhưng với “ thuyền câu giữa làn nước ao thu” khiến chúng ta có thể liên tưởng tới khung cảnh của một người đang thư thái ngồi câu cá

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Cả ao được nhuộm bởi sắc thu và không khí của mùa thu, ao thu đó có chút lạnh lẽo không một chút gợn để chúng ta thấy được nước mùa thu nó có thể xuyên tận đáy. Cảnh sắc mùa thu có thể hiển hiện rõ nhất là màu nước và khung cảnh thiên nhiên từ đó mà lan tỏa. Bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, hình ảnh nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và hết sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Mọi thứ chỉ hơi gợn không một chút biến đổi mạnh nào, màu của sóng biếc pha trộn với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Cách hiệp vần ở mỗi cuối câu khiến cho ta đọc lên cảm thấy không gian vừa rất tĩnh lại vừa thu hẹp lại,tâm điểm của bài thơ được nổi bật và tập trung điểm nhìn hơn.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Không gian dường như được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Bầu trời xanh ngắt là một đặc trưng của thơ miêu tả thu của Nguyễn Khuyến. Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu và thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Không gian thu hẹp lại khi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại.

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Cảnh vật càng trở nên êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt chìm vào không khí vắng lặng của mùa thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước đến ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc… đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh có chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam. Những hình ảnh đó dường như đã quá quen thuộc với người dân Việt Nam mỗi khi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ, và nó cũng gắn liền với nỗi buồn không đáy.Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, nhưng tư thế ngồi của người buông cần câu như cũng bất động trong thời gian:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Tư thế của người câu cá là tư thế tựa gối ôm cần, và không có chút gì là thay đổi tư thế,như ông đang chờ đợi điều gì xảy ra rất lâu và cứt thế, bình tĩnh để nhìn thấy kết quả. Hình ảnh này cũng mang dáng dấp của những người vui thú khi về ở ẩn, sống một cuộc sống đạm bạc. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nha thơ có phẩm chất thanh cao.Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.

“Thu điếu“ là một bài thơ mùa thu đặc sắc với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của những sự vật cũng trở nên tinh tế dưới tài quan sát và sự nhạy bén của tác giả. Hình ảnh quen thuộc dân giã những chính là chất liệu để dệt nên những hồn thơ hay như thế

Với tình yêu thiên nhiên tha thiết, yêu cảnh sắc và những sự thay đổi của đất trời vào Thu,mọi thứ trong “ Thu điếu”là một cách thể hiện tâm hồn của ông. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Ngâm Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn đồng nội, đất nước. Vẻ đẹp quê hương đất nước và tâm hồn của Nguyễn Khuyến cũng được gợi mở trên từng con chữ.

2 tháng 12 2022

loading...  loading...  

2 tháng 12 2022

loading...  loading...