viết một bài thuyết trình về thiên nhiên quanh ta : GDCD
mk đg cần gấp!
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong những câu chuyện truyền thuyết, câu chuyện mà em thích nhất là “Sơn Tinh Thủy Tinh”, đây là câu chuyện lí giải hiện tượng lũ lụt xảy ra hàng năm ở nước ta và là một câu chuyện hay, hấp dẫn.
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết dịu hiền. Tương truyền rằng, công chúa có làn da trắng như tuyết, mái tóc dài mượt thướt tha như nước suối chảy, đôi mắt sáng long lanh như những vì tinh tú trên bầu trời cao. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng xứng đáng. Khi công chúa đến tuổi gả chồng, nhà vua truyền lệnh đi khắp nơi mở hội kén chồng cho công chúa. Những anh hùng từ khắp nơi đổ về, toàn là người tài hoa tuấn tú mong được kết duyên cùng công chúa nhưng đã mấy tháng trời mà chẳng có lấy một người lọt vào mắt xanh của nhà vua.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người cao to, vạm vỡ, giọng nói như sấm vang rừng xanh, đôi mắt như cái nhìn của chim ưng, tự xưng là Sơn Tinh, người cai quản vùng núi Tản Viên. Một người mình toát lên khí thế của vạn con sóng tràn, vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao, tự xưng là Thủy Tinh, là người cai quản cả đại dương rộng lớn. Hai chàng xin phép trước mặt vua Hùng để thi tài cao thấp. Sơn Tinh thì tài dời non chuyển núi, chàng vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Thủy Tinh cũng không chịu thua kém, chàng hô một tiếng, muốn mưa có mưa, muốn gió có gió, chàng vung tay một cái, dù đang có bão cũng phải mưa tạnh mây tan. Hai chàng ai ai cũng tài năng, ai ai cũng thân phận cao quý, cũng đều xứng đáng làm rể nhà vua, không biết phải xử trí thế nào, vua Hùng suy nghĩ một lúc rồi phán:
- Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái,biết gả cho người nào? Thôi thì mai ai mang sính lễ đến trước ta sẽ gả con gái cho.
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ sắm những gì thì vua Hùng bảo: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi không thể thiếu thứ gì.”
Hôm sau, tới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đem lễ vật tới trước nên được rước Mị Nương về, Thủy Tinh đến sau, không cưới được Mị Nương bèn đem quân đánh Sơn Tinh hòng đòi lại Mị Nương.
Thần hô những tiếng vang trời làm mưa gió ùn ùn kéo đến mỗi lúc một lớn làm rung chuyển cả đất trời. Nước sông dâng lên cuồn cuộn chảy làm ngập ruộng đồng, nhà cửa, nhấm chìm mọi đất đai, dâng lên lưng chừng đồi. Cả thành Phong Châu ngập trong biển nước. Từ dưới mặt nước, những con thủy quái, bạch tuộc, thuồng luồng, cá sấu,… bắt đầu hiện lên trực chờ, chúng va vào chân núi, phun nước trắng xóa như khiêu khích đối thủ. Sơn TInh không hề nao núng, chàng bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, sơ tán nhân dân. Nước của Thủy Tinh dâng cao đến đâu, núi của Sơn Tinh lại dâng cao đến đấy. Chàng đưa tay ngang miệng huýt một hồi sáo dài, từ trong rừng thẳm, nào là voi, hươu, hổ, báo, gấu,… nườm nượp kéo tới, chúng kéo những hòn đá nặng tảng một ném xuống đè chết lũ thủy quân bên dưới. Hai bên đánh nhau lâu mà sức Sơn Tinh vẫn vững, trong lúc sức Thủy Tinh đã kiệt. Thần Nước đành rút quân, phần thắng thuộc về Sơn Tinh và nhân dân lại được ấm no như trước. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh lại phải thất bại quay về.
Câu chuyện đã theo nhân dân ta cả nghìn đời nay, là sự chứng minh cho chiến thắng của nhân dân hàng năm, cho dù lũ lụt xảy ra nhưng vẫn phải rút, giống như Thủy Tinh có đem nước đánh Sơn Tinh bao nhiêu lần vẫn không thể đánh thắng.
Hok tốt
Trong những câu chuyện truyền thuyết, câu chuyện mà em thích nhất là “Sơn Tinh Thủy Tinh”, đây là câu chuyện lí giải hiện tượng lũ lụt xảy ra hàng năm ở nước ta và là một câu chuyện hay, hấp dẫn.
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết dịu hiền. Tương truyền rằng, công chúa có làn da trắng như tuyết, mái tóc dài mượt thướt tha như nước suối chảy, đôi mắt sáng long lanh như những vì tinh tú trên bầu trời cao. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng xứng đáng. Khi công chúa đến tuổi gả chồng, nhà vua truyền lệnh đi khắp nơi mở hội kén chồng cho công chúa. Những anh hùng từ khắp nơi đổ về, toàn là người tài hoa tuấn tú mong được kết duyên cùng công chúa nhưng đã mấy tháng trời mà chẳng có lấy một người lọt vào mắt xanh của nhà vua.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người cao to, vạm vỡ, giọng nói như sấm vang rừng xanh, đôi mắt như cái nhìn của chim ưng, tự xưng là Sơn Tinh, người cai quản vùng núi Tản Viên. Một người mình toát lên khí thế của vạn con sóng tràn, vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao, tự xưng là Thủy Tinh, là người cai quản cả đại dương rộng lớn. Hai chàng xin phép trước mặt vua Hùng để thi tài cao thấp. Sơn Tinh thì tài dời non chuyển núi, chàng vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Thủy Tinh cũng không chịu thua kém, chàng hô một tiếng, muốn mưa có mưa, muốn gió có gió, chàng vung tay một cái, dù đang có bão cũng phải mưa tạnh mây tan. Hai chàng ai ai cũng tài năng, ai ai cũng thân phận cao quý, cũng đều xứng đáng làm rể nhà vua, không biết phải xử trí thế nào, vua Hùng suy nghĩ một lúc rồi phán:
- Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái,biết gả cho người nào? Thôi thì mai ai mang sính lễ đến trước ta sẽ gả con gái cho.
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ sắm những gì thì vua Hùng bảo: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi không thể thiếu thứ gì.”
Hôm sau, tới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đem lễ vật tới trước nên được rước Mị Nương về, Thủy Tinh đến sau, không cưới được Mị Nương bèn đem quân đánh Sơn Tinh hòng đòi lại Mị Nương.
Thần hô những tiếng vang trời làm mưa gió ùn ùn kéo đến mỗi lúc một lớn làm rung chuyển cả đất trời. Nước sông dâng lên cuồn cuộn chảy làm ngập ruộng đồng, nhà cửa, nhấm chìm mọi đất đai, dâng lên lưng chừng đồi. Cả thành Phong Châu ngập trong biển nước. Từ dưới mặt nước, những con thủy quái, bạch tuộc, thuồng luồng, cá sấu,… bắt đầu hiện lên trực chờ, chúng va vào chân núi, phun nước trắng xóa như khiêu khích đối thủ. Sơn TInh không hề nao núng, chàng bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, sơ tán nhân dân. Nước của Thủy Tinh dâng cao đến đâu, núi của Sơn Tinh lại dâng cao đến đấy. Chàng đưa tay ngang miệng huýt một hồi sáo dài, từ trong rừng thẳm, nào là voi, hươu, hổ, báo, gấu,… nườm nượp kéo tới, chúng kéo những hòn đá nặng tảng một ném xuống đè chết lũ thủy quân bên dưới. Hai bên đánh nhau lâu mà sức Sơn Tinh vẫn vững, trong lúc sức Thủy Tinh đã kiệt. Thần Nước đành rút quân, phần thắng thuộc về Sơn Tinh và nhân dân lại được ấm no như trước. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh lại phải thất bại quay về.
Câu chuyện đã theo nhân dân ta cả nghìn đời nay, là sự chứng minh cho chiến thắng của nhân dân hàng năm, cho dù lũ lụt xảy ra nhưng vẫn phải rút, giống như Thủy Tinh có đem nước đánh Sơn Tinh bao nhiêu lần vẫn không thể đánh thắng.
CẢm nhận bài ca dao sau:
Thương thay thân phận con tằm ,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây.
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời.
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Từ xa xưa, những bài ca dao Việt Nam với âm hưởng da diết, nhịp nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc đã được người dân sáng tác và lưu truyền cho tới ngày nay. Nội dung của các bài ca dao ấy cũng rất phong phú, có những bài ca dao được sáng tác để phản ánh lịch sử, có những bài được sáng tác nhằm phản ánh đời sống tình cảm nhân dân hoặc phản ánh đời sống xã hội cũ. Trong số các bài ca dao phản ánh đời sống xã hội cũ thì bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” là một ví dụ tiêu biểu, nêu lên thân phận bé nhỏ của người nông dân trong xã hội cũ giống như những con tằm, con kiến.
Bài ca dao còn là tiếng nói của những con người thấp bé trong xã hội phải vất vả làm lụng, bài ca dao cũng là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn ác đã chèn ép người dân đến bước đường cùng.
Bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” được viết theo thể thơ lục bát, âm hưởng của bài ca dao mềm mại, câu từ mộc mạc, giản dị đã làm cho bài ca dao trở nên phổ biến trong dân gian Việt Nam:
“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”.
Hình ảnh “con tằm” và “con kiến” trong 4 câu thơ đầu của bài ca dao chính là những hình ảnh ẩn dụ cho những thân phận “bé nhỏ” trong xã hội cũ, họ là những người có địa vị thấp kém phải lam lũ làm ăn và chịu sự đàn áp của những kẻ có địa vị trong xã hội. Thân phận con tằm đã bé nhỏ, chỉ được ăn lá dâu nhưng lại phải nhả tơ – thứ tơ vàng óng ánh dùng để dệt thành vải, lụa và tạo ra những sản phẩm cao cấp có giá trị. Sau khi nhả tơ xong, con tằm cũng hết giá trị và đồng nghĩa với việc cuộc đời của nó cũng kết thúc. Như vậy hình ảnh con tằm nhả tơ chính là một đại diện cho những người lao động trong xã hội cũ, họ bị bóc lột sức lao động để tạo ra của cải cho địa chủ, khi sức lao động yếu đi họ cũng sẽ bị sa thải hoặc bị đối xử tệ bạc và tàn ác.
Hình ảnh con kiến li ti khiến người ta có cảm giác thật bé nhỏ, những chú kiến ấy mải miết ngược xuôi để tìm mồi. Những chú kiến ấy cũng giống như những người nông dân ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, đi sớm về khuya nhưng cuộc sống vẫn khó khăn vất vả.
“Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời.
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”.
Hình ảnh cánh chim, con hạc, con cuốc nhà những hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao, có lẽ những người nông dân lao động tìm thấy sự đồng điệu giữa hình ảnh gầy guộc, lầm lũi của con vật với chính bản thân mình. Những chú chim mải miết bay đi tìm ăn, bay đến mỏi cánh mà không biết ngày nào sẽ kết thúc cuộc hành trình ấy, cũng giống như cuộc đời phiêu bạt lận đận của những người dân lao động. Những con người bé nhỏ ấy phải cố gắng kiếm sống ngày qua ngày mà không biết khi nào cuộc sống ấy mới chấm dứt, không biết bao giờ mới hết đói hết khổ.
Hình ảnh con cuốc ở hai câu thơ cuối mới đáng thương làm sao, con cuốc bé nhỏ giữa bầu trời rộng lớn dẫu có kêu gào đến mức nào cũng không có ai thấu hiểu, không có ai lắng nghe. Con cuốc ấy cũng là hiện thân của người dân lao động thấp cổ bé họng, dù họ có kêu tới mức nào thì cũng không ai hiểu cho nỗi khổ của họ, không ai có thể cứu vớt họ khỏi cuộc sống tăm tối, khổ cực. Họ hoàn toàn không nhận được sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là giai cấp thống trị xã hội lúc bấy giờ vì vậy tiếng kêu than của họ cũng trở nên vô vọng.
Những người lao động xưa khi nhìn thấy những con vật bé nhỏ tội nghiệp thường có sự đồng cảm bởi chính họ cũng nhỏ bé, tội nghiệp như những con vật ấy. Từ “thương thay” được lặp đi lặp lại trong suốt bài ca dao đã nhấn mạnh sự xót xa vô hạn, nỗi thương cảm vô bờ của người dân lao động đối với những con vật bé nhỏ và cũng chính là niềm thương cảm đối với bản thân họ.
Xã hội phong kiến giống như địa ngục trần gian của những người nhân dân lao động, cuộc sống lầm than khổ cực khiến họ phải cất tiếng than ai oán qua những bài ca dao. Những bài ca dao ấy vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đó sẽ là kho tàng văn hóa dân gian vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết quý trọng hiện tại và cống hiến hết mình cho Tổ Quốc.
Bạn đã từng nghe câu nói của Elizabeth Berg: “Bạn được sinh ra từ gia đình của mình và gia đình được sinh ra từ trong bạn. Không mưu cầu. Không đổi chác.” Trong cuộc sống mỗi chúng ta, có đôi lúc ta sẽ gặp phải những khó khăn và thử thách, những lúc ấy ta thường tìm đến những điểm tựa tinh thần giúp con người ta yêu đời, lạc quan và vượt qua được gian khổ. Nơi đó không đâu xa xôi mà nó chính là tình cảm gia đình.
Vậy thế nào là gia đình? Tình cảm gia đình là gì? Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình là cái nôi cơ sở nền tảng bồi dưỡng để hình thành nên nhân cách nhân cách con người.
Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng, giữa những người máu mủ, ruột rà, trước hết nó chính là tình cảm của những người trong gia đình dành cho nhau đó là: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em. Tình cảm ấy không chỉ là tình cảm giữa những người có cùng huyết thống với nhau mà những người không chung huyết thống cũng có thể cảm nhận được từ việc họ quan tâm đến nhau, cộng tác với nhau trong công việc.
Để thể hiện tình cảm, mỗi con người lại có mỗi cách quan tâm khác nhau, không ai giống ai cả. Có người quan tâm bằng lời nói có người lại quan tâm bằng hành động. Nhưng họ đều có một điểm chung là đều yêu quý người thân của mình. Chẳng hạn như khi ông bà bị ốm đau, không cần phải ăn món cao lương mĩ vị gì cả chỉ đơn giản là con cháu quây quần bên cạnh động viên an ủi cũng làm cho ông bà cảm thấy hết bệnh.
Đó là những điều vô cùng giản dị của tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình còn có thể vượt qua được rào cản về địa lí, khiến cho con người cảm thấy luôn được bên cạnh nhau. Dù có ở xa nhau nhưng lúc nào cũng nhớ đến nhau, trong tim luôn đặt họ vào một vị trí quan trọng, gắn bó với nhau bằng cả tấm lòng, khi càng ở xa lại càng nhớ, càng nhớ càng trông ngóng. Đó là điều rất khó giải nhưng là điều khiến ai cũng phải công nhận nó.
Nếu thực sự yêu thương nhau dù có ở đâu thì lúc nào cũng hướng về nhau, chẳng có gì có thể ngăn cản được họ. Tình cảm gia đình là thứ tình cảm tồn tại mãi mãi, bởi nó thuộc về thế giới tinh thần là những gì cao quý, bền vững nhất. Nó sẽ chẳng bao giờ biến mất khi con người ta biết trân trọng và nâng niu nó.
Tình cảm gia đình có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Nó là nơi cho ta sự an ủi, niềm tin, sự hi vọng để vượt qua những khó khăn ấy một cách dễ dàng. Tình cảm gia đình là thứ con người tìm về sau một chuyến đi dài mệt mỏi. Xã hội phát triển thì có rất nhiều mối quan hệ nhưng không có mối quan hệ nào đáng giá bằng tình cảm gia đình, nó luôn chiếm vị trí cao trong đời sống tinh thần của con người.
Nếu con người sống không có tình cảm gia đình sẽ trở nên khô cằn, héo úa và cũng mất đi một điểm tựa của cuộc đời mình. Nếu các em nhỏ từ nhỏ không có tình yêu thương của gia đình thì nó sẽ trở thành một đứa trẻ cộc cằn, không cảm nhận được tình cảm từ bố mẹ, nó sẽ tìm kiếm đến những người nó cho là hiểu nó, đem đến niềm vui cho nó bằng những thứ trái pháp luật bởi nó đâu có được quan tâm hay dạy bảo điều đó có đúng hay không.
Mỗi con người phải ý thức được vai trò quan trọng của tình cảm gia đình với cuộc sống để giữ gìn, nâng niu, trân trọng, đừng để một ngày đánh mất nó rồi mới đi tìm lại lúc đó đã muộn lắm rồi. Việc làm đơn giản chỉ là hàng ngày quan tâm nhau bằng những việc nhỏ nhất sẽ làm cho tình cảm ấy càng đẹp hơn, ý nghĩa hơn và gắn kết mọi người gần nhau hơn.
Tình cảm gia đình còn xuất hiện ở những người không chung huyết thống. Nhưng chúng ta vẫn có thể chia sẻ quan tâm với nhau như những người thân trong gia đình. Những em bé sinh ra mồ côi cha mẹ từ nhỏ cùng nhau sống trong cô nhi viện, các em đã coi chính những người chăm sóc giống như người mẹ, những người bạn sống cùng nhau như người anh, người chị. Đối với họ đó chính là tình cảm gia đình đáng được trân trọng.
Ở trong xã hội hiện đại, khi lòng người khó lường trước, mọi quan hệ đều dựa trên lợi ích kinh tế thì lúc đấy tình cảm lại chính là mắt xích giúp con người ta gắn kết với nhau, giúp xã hội phát triển càng phát triển hơn. Tình cảm gia đình là cao quý, vì vậy mỗi người cần phải ý thức và bảo vệ và xây dựng tình cảm đẹp đẽ ấy. Đồng thời phê phán và lên án những con người coi thường và không biết trân trọng tình cảm gia đình, những người như thế một ngày nào đó sẽ nhận được hậu quả thích đáng cho hành động của họ.
Mỗi một con người sẽ có một những chốn bình yên cho riêng mình, đó có thể là tình bạn, cũng có thể là trong tình yêu và có những người cho rằng chốn bình yên nhất là tình cảm gia đình. Sau bao nhiêu gian lao, bão táp con người ta đều mong được về bên gia đình để được yêu thương, an ủi.
Cấu trúc một bài giới thiệu bản thân:
Trong mỗi người đều có một niềm đam mê cho riêng mình và với tôi đó là đọc sách. Đọc sách mang lại những tri thức cho con người. Sách còn giúp tôi thư giãn sau những giờ học hành mệt mỏi. Tôi có rất nhiều loại sách như: sách văn học, sách tìm hiểu tri thức khoa học, sách địa lí – lịch sử… Hễ khi nào có dịp đi nhà sách thì tôi luôn chọn cho mình những cuốn sách bổ ích với bản thân. Tôi luôn trân trọng và giữ gìn cẩn thận những cuốn sách đó.
Nguyên Hồng là một tác giả văn học tiêu biểu, văn ông thấm đẫm những dòng cảm xúc dạt dào và chất chứa những tình cảm lớn lao và cao đẹp. Ông viết không quá nhiều về phụ nữ và trẻ em nhưng những trang văn ông viết về họ đều chứa chan niềm thương cảm, dường như quả mỗi nhân vật khắc họa, ông đều thấu hiểu được những tâm tư, tình cảm của từng nhân vật, có đau đớn, tủi cực, có sung sướng, hạnh phúc, tất cả đều được hiển hiện vô cùng chân thực. Đoạn trích "Trong lòng mẹ" trong hồi kí "Những ngày thơ ấu" là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho thấy được Nguyên Hồng là "nhà văn của phụ nữ và trẻ em".
Trong đoạn trích, hình ảnh những người phụ nữ được thể hiện rõ nét. Đó là một bà cô độc ác, tàn nhẫn với những toan tính, ích kỉ. Mụ gieo vào lòng cậu bé những nỗi bất an và khổ đau đến tội nghiệp để chia cắt tình cảm mẹ con Hồng. Mụ chưa hề để tâm đến đứa cháu đáng thương phải xa mẹ từ nhỏ, sự nhỏ nhoi, ích kỷ, hẹp hòi của mụ, tình máu mủ không khiến mụ bao dung mà trái lại vô cùng tàn nhẫn. Những lời lẽ lạnh lùng, kích động từ mụ thốt ra như con dao sắc cứa vào tim đứa trẻ. Nguyên Hồng đã miêu tả tinh vi từng hành động, lời nói và cả nét cười rất kịch trong nhân vật bà cô. Sự giả dối, độc ác ấy mãi chẳng thể thắng thế trước lòng lương thiện và một trái tim tin yêu.
Không chỉ hiểu rõ những âm mưu tàn độc của nhân vật phản diện, Nguyên Hồng còn là người thấu hiểu với những nỗi đau khổ, mất mát của người phụ nữ, đó là mẹ Hồng. Một người đàn bà nghèo có cuộc sống hôn nhân không tình yêu. Chồng chết người phụ nữ ấy phải đi tha hương cầu thực tạm xa đứa con thơ bé bỏng. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau không được gần con, nhưng vì cuộc sống mưu sinh, người phụ nữ ấy đành chấp nhận, buôn bán ngược xuôi, cuộc sống khốn khó khiến mẹ Hồng ngày càng tiều tụy. Nguyên Hồng còn thấu hiểu được cả những nỗi đau tinh thần khi mà bao hủ tục lạc hậu đã đày đọa người mẹ trở nên khốn khổ, phải chấp lấy người đàn ông không yêu mình.
Mẹ bé Hồng là người mẹ chứa chan tình yêu thương dành cho con, vòng tay yêu thương ôm trọn cậu bé vào lòng cùng ánh mắt dịu hiền thiết tha nhìn em khiến ta không khỏi nghẹn ngào, thương cảm. Niềm hạnh phúc vô bờ khi gặp lại đứa con thân yêu sâu bao tháng ngày xa cách khiến người mẹ nghẹn ngào không nói nên lời, nhưng chỉ qua bấy nhiêu cử chỉ và hành động ấy thôi cũng khiến ta không khỏi cảm phục trước tấm lòng của người mẹ, trước tình mẫu tử thiêng liêng ấy. Những cử chỉ vuốt ve, âu yếm con thơ chính là những bù đắp vô giá cho cậu bé Hồng suốt thời gian thiếu vắng bóng hình mẹ. Từng lời, từng chữ được Nguyên Hồng viết về người mẹ thật dạt dào ân tình, mang cả sự trân trọng và kính yêu, niềm tin thiêng liêng dành cho mẹ. Tác giả như đi vào đời sống của nhân vật để kể một cách đầy chân thực mà tình cảm đến vậy, đó là một tâm hồn thiết tha và thành kính gửi đến những người phụ nữ chịu nhiều hy sinh, mất mát, đau khổ.
Không chỉ viết về người phụ nữ, đoạn trích còn chứa chan những tình cảm dành cho trẻ thơ. Hình ảnh cậu bé Hồng thật đáng thương mà cũng đầy lòng tự trọng, đầy tin yêu mẹ luôn hiện hữu trong từng trang của tác phẩm. Dường như với số phận nhiều đau thương từ nhỏ nên hơn ai hết, Nguyên Hồng hiểu được những mất mát, nỗi đau mà cậu bé tội nghiệp phải gánh chịu. Đó là nỗi cô đơn đáng thương khi mồ côi cha và sống thiếu sự chở che của mẹ, bên cạnh lại toàn những người thân hẹp hòi ích kỷ, lạnh nhạt. Cậu bé ấy không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn thiếu thốn cả tinh thần. Nguyên Hồng trân trọng những tình cảm đẹp đẽ và thiêng liêng của người con dành cho mẹ, một tình thương sâu sắc vô bờ, mãnh liệt khôn tả. Cậu bé nhớ mẹ và khát khao được gặp em, hình ảnh mẹ luôn trong tâm trí cậu, nỗi nhớ da diết đến nao lòng. Khi bà cô hỏi về việc Hồng có muốn vào Thanh Hóa gặp mẹ thì hình ảnh mẹ lại trỗi dậy trong em, em không thể nào nguôi nỗi nhớ ấy. Dẫu bao lời cay độc của bà cô thốt ra, dẫu hoàn cảnh, thời gian và khoảng cách có làm em xa mẹ thì mẹ vẫn mãi luôn sống trong tim em, một mực tin tưởng vào tình yêu thương mẹ dành cho mình mà không hề bị lay động. Niềm tin ấy thật mãnh liệt. Mặc cho bao người chê trách mẹ, tìm cách vùi dập mẹ thì em vẫn luôn bên mẹ, luôn mong muốn được bảo vệ mẹ. Cậu bé ấy căm thù tất cả những hủ tục lạc hậu đã đày đọa mẹ, khiến mẹ em phải sống cảnh tha phương cầu thực, phải chạy vạy mưu sinh, khiến hai mẹ con không được sống gần nhau. Hồng khát khao gặp lại mẹ vô bờ, thoáng nhìn chiếc xe cùng gương mặt mẹ em đã cố đuổi theo để gần mẹ. Hạnh phúc lớn lao khi được tựa vào lòng mẹ, được thấy mẹ vẫn tươi tắn và xinh đẹp, được mẹ chở che trong sự yêu thương, em thấy bình an và nhẹ nhõm. Cũng như bao đứa trẻ khác, tình thương cha mẹ thật thiêng liêng và rất cần thiết, đó chính là điểm tựa vô cùng lớn cho hành trang vào đời của mỗi người.
Có biết bao bài thơ, bài văn viết về phụ nữ và trẻ em nhưng không phải ai cũng để lại cho người đọc những dư vị khó quên như những trang văn của Nguyên Hồng. "Những ngày thơ ấu" thực sự đã trở thành một món ăn tinh thần cho những người yêu văn học, là bài học về trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ với con cái và sự thành kính yêu thương những người con dành cho cha mẹ mình. "Trong lòng mẹ" thực sự là một bản tình ca đẹp đẽ và thiêng liêng vô ngàn về tình mẫu tử thiêng liêng.
Trên đây là bài văn mẫu Chứng minh Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và trẻ em qua đoạn trích Trong lòng mẹ, để tìm hiểu về phong cách sáng tác cũng như tấm lòng của nhà văn Nguyên Hồng với những số phận bất hạnh, các em có thể tham khảo thêm: Giá trị nhân đạo trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng, Nêu suy nghĩ về tình mẫu tử trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng, Qua đoạn trích Trong lòng mẹ, chứng minh nhận định: Hồi kí của Nguyên Hồng không phải là những trang ghi chép một cách giản đơn, Phân tích người mẹ trong đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng.
#Trang
Triển khai theo các ý sau:
a. Số phận bất hạnh
- Gia cảnh
+ Góa vợ, sống một mình
+ Nghèo, vì nghèo mà không lấy được vợ cho con -> dằn vặt
+ Người con trai duy nhất bỏ đi phu, bặt vô âm tín.
ð Cô đơn khi về già.
- Khó khăn:
+ Già rồi nhưng vẫn đi làm thuê
+ Hai trận ốm lấy hết số tiền lão có
+ Trận bão cướp hết hoa màu
+ Lão phải “cạnh tranh” với những người phụ nữ khác.
b. Tình cảnh trớ trêu
- “Cậu Vàng” là người thân duy nhất, là kỉ vật duy nhất của người con trai
+ Lão Hạc chăm sóc và yêu thương nó như một con người.
+ Cách gọi tên “cậu” giống đứa con cầu tự.
+ Cách cho ăn giống như nhà giàu
+ Cách chăm sóc: trò chuyện, cưng nựng.
ð Yêu cậu Vàng hơn cả bản thân.
- Lão bị rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng.
- Thực tế khốn khó buộc lão phải bán cậu Vàng.
- Tâm trạng của lão sau khi bán cậu Vàng:
+ Cố làm ra vui vẻ
+ Cười như mếu, mắt
+ Mặt co rúm lại, lão khóc
+ Day dứt vì mình đã lừa cậu Vàng.
+ Sau khi bán cậu Vàng, cuộc sống của lão ngày càng nghèo khó
ð Tự trừng phạt bản thân.
c. Cái chết của lão Hạc
- Lão hoàn toàn trắng tay.
- Trừng phạt bản thân vì đã lừa cậu Vàng.
- Bảo toàn số tiền tiết kiệm và mảnh vườn.
- Ước muốn được “hóa kiếp” sang cuộc sống tốt hơn.
- Cách lão tự tử: dùng bả chó.
-> lão đau đớn, vật vã.
=> Đòn nghiêm khắc lão dành để hành hạ bản thân.
d. Phẩm chất của lão Hạc
- Người cha hết mực thương con và trách nhiệm.
+ Luôn cảm thấy xót xa vì đã không làm tròn vai trò.
+ Gửi gắm lòng thương con vào việc chăm sóc cậu Vàng.
+ Lão không ngừng lao đông và quyết tâm giữ mảnh vườn.
- Lòng tự trọng rất sâu sắc
+ Lão luôn sống bằng sức lao động của chính mình.
+ Lão không chấp nhận tha thứ cho bản thân vì đã lừa cậu Vàng.
+ Không chấp nhận sự giúp đỡ của ông giáo.
+ Để lại tiền ma chay.
Trong bối cảnh chung của thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa đang ở vào giai đoạn phát triển cực thịnh; giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước lớn làm tăng nhu cầu vế thuộc địa, cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa. Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ngày càng được đẩy mạnh.
Bước vào đầu thế kỷ XIX vùng Đông Nam Á rộng lớn trở thành mục tiêu của các nước đế quốc. Trước xu thế bành trướng của các nước đế quốc, nhiệm vụ lịch sử chung của các nước Đông Nam Á lúc này là: bằng mọi cách phải bảo vệ độc lập dân tộc. Con đường thực hiện điều này ở từng nước lại khác nhau.
Trong khi hầu hết các quốc gia Đông Nam đều không chống chọi được với chủ nghĩa thực dân Phương Tây thì Xiêm (Thái Lan) là một nước Đông Nam Á ngoại lệ, đã sớm nhận thức được cục diện chính trị thế giới và xây dựng được chương trình hành động phù hợp để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Vậy nguyên nhân nào đã giúp Xiêm bảo vệ được nền độc lập cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong khi các nước Đông Nam Á khác không giữ được?. Theo chúng tôi có những nguyên nhân sau:
Chính sách đối ngoại “mềm dẻo”
Đây là chính sách cực kỳ khôn ngoan của Xiêm trong đường lối ngoại giao. Trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây, Xiêm đã chủ trương “mở cửa” đối với tất cả các quan hệ với họ, Xiêm một mặt tạo thế cân bằng với các nước phương Tây nhưng mặt khác lại tăng cường ảnh hưởng đến các nước láng giềng. Bằng chính sách ngoại giao “mềm dẻo” “lựa chiều” Xiêm đã duy trì “độc lập” sẵn sàng đương đầu với các thế lực tư bản Phương Tây. Năm 1511, Bồ Đào Nha chiếm Malaca; phản ứng của chính quyền Xiêm: im lặng vì người Thái chưa hiểu gì về Bồ Đào Nha.
Để xác lập việc thống trị ở Malaca, Bồ Đào Nha đã đến vua Xiêm hội ý và xin đặt thánh giá tại quảng trường lớn của Xiêm. Vua Xiêm đã chấp nhận nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với Bồ Đào Nha, ngụ ý mua đại bác của người Bồ Đào Nha tấn công Mianma. Xiêm đã tạo được mối giao hảo với người Bồ Đào Nha. Năm 1604, Hà Lan đến Xiêm xin lập cơ sở buôn bán, vua Xiêm cho người Hà Lan được quyền buôn bán ở đây. Năm 1610, thương điếm của người Hà Lan được xây dựng ở thủ đô Ayuthaya. Cùng với người Hà Lan, Công Ty Đông Ấn Độ của Anh cũng sớm có mặt ở Xiêm. Sau đó Anh bị Hà Lan chèn ép phải đóng cửa thương điếm mất ảnh hưởng ở đây . Năm 1662-1664, Anh trở lại Xiêm, người Xiêm đón tiếp nồng nhiệt và đáp ứng mọi yêu cầu của Anh chống lại ảnh hưởng Hà Lan tại đây.
Năm 1662, người Pháp đến Xiêm, Pháp yêu cầu Xiêm cho tự do truyền đạo và tự do buôn bán. Yêu cầu đó được vua Xiêm chấp nhận. Lúc bấy giờ vấn đề độc lập chưa đặt ra với Xiêm, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo Xiêm đã mở cửa quan hệ với các nước phương Tây; biết dựa vào các thế lực Hà Lan để chống lại thế lực ngày càng lớn mạnh của Bồ Đào Nha nhưng khi thế lực của Hà Lan ngày càng chi phối mạnh mẽ ở Xiêm thì họ lại dựa vào Anh để chống Hà Lan… Sang thế kỷ XIX, nước Anh lại đẩy mạnh xâm chiếm khu vực Đông Nam Á, sau khi chiếm được Singapore (1819), Anh lại tập trung chú ý vào bán đảo Malaixia và thị trường Xiêm.
Năm 1832 một chiến hạm chở đại sứ Anh Tôn-Krâu- Phec-đơ đã lên đường và nhanh chóng thả neo ở sông Mê Nam(Xiêm). Trong quá trình đàm phán, phía Xiêm đề nghị với Anh bán vũ khí cho mình còn phía Anh yêu cầu được tự do mua bán và quyền tối huệ quốc. Kết quả là hai bên đã đi đến ký hiệp ước ngày 10/6/1822, theo đó tàu của Anh được phép đi sâu vào sông Mê nam nhưng với điều kiện là phải tháo dở đại bác cùng vũ khí khác lên bờ và Xiêm được phép kiểm tra tàu Anh. Về phần mình, cơ quan hải quan của Xiêm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán của người Anh và bảo đảm không tăng thuế trong tương lai.
Hai năm sau, tình hình trở nên phức tạp khi thực dân Anh phát động chiến tranh xâm lược Miến Điện. Ngay khi lên cầm quyền (8/1824) Rama III đã điều ngay 3 đạo quân lớn tới biên giới Miến- Xiêm và một đạo quân khác tới Ligo để 2 chờ cơ hội mở rộng lãnh thổ trong trường hợp Anh bị sa lầy trong cuộc chiến tranh với Miến Điện.
Năm 1824, Anh đề nghị với Xiêm: cùng phối hợp tấn công Mianma, Xiêm tấn công Miến từ phía đông bắc, nơi quân Anh chưa thể vươn tới được, để phân tán lực lượng của quân Miến Điện, tạo điều kiện cho lực lượng Anh tấn công từ phía biển lên, đồng thời gây sức ép buộc Xiêm phải từ bỏ tham vọng ở các tiểu quốc trên bán đảo Malai, nơi có vị trí thương mại quan trọng đối với cả Xiêm lẫn Anh.
Biết được ý đồ “Một mũi tên bắn trúng hai đích” của Anh nên lúc đầu Xiêm không tham gia. Đến năm 1825, Anh cử một phái bộ do đại úy Hăng ri- Bowni cầm đầu đến Xiêm xin tiếp viện. Vua Rama III đồng ý giúp Anh đánh Miến Điện nhưng không phối hợp với quân anh mà độc lập tác chiến, bằng cánh cho quân tiến đánh Motama, nơi trước đây Miến Điện thường tập trung quân trước khi tấn công Xiêm và một số nơi khác Trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Anh và Xiêm, vua Miến Điện Bagyido phải đầu hàng và ký hiệp ước.
Theo hiệp ước: Miến Điện phải nhường các địa phương ven biển và các đảo cho Anh đồng thời phải nộp phạt 10 triệu Rubi. Trong hiệp ước còn ghi rõ “Vua Xiêm là đồng minh rất trung thực của nước Anh sẽ được hưởng nhiều quyền lợi” Như vậy, nhờ chủ động tham chiến một cách khôn khéo Xiêm vừa góp phần tiêu diệt Miến Điện, kẻ thù lâu đời của mình vừa không bị rơi vào mưu đồ của Anh, ngược lại được chia phần “Thắng lợi” và trở thành đồng minh với Anh trong cuộc chiến chống lại Miến Điện. Điều đó mang lại cho Xiêm một vị thế mới trong quan hệ với Anh.
Nhờ đó ngày 20/6/1826 Xiêm đã ký với Anh một hiệp ước mới trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với Anh. Nội dung chủ yếu của hiệp ước là hai bên thõa thuận phân chia ảnh hưởng trên bán đảo Mã Lai. Với hiệp ước này Xiêm không hề bị thua thiệt trong bất cứ một điều khoản nào cả đối với Anh. Không dừng lại trong quan hệ với Anh, Xiêm đã chủ động thiết lập quan hệ với Mỹ, một thế lực mà Xiêm cho là dễ chịu hơn so với các thế lực Phương Tây khác lúc bấy giờ. Xuất phát từ nhận thức về vị thế và tầm quan trọng của Mỹ, Xiêm đã nhanh chóng ký hiệp định thương mại với Mỹ (20/3/1833) với những điếu khoản tương tự như hiệp ước với Anh. Mặc dù hiệp định thương mại chưa 3 mang lại nhiều lợi lộc cho Xiêm nhưng họ đã thu được nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật trong một số lĩnh vực như: in ấn, y tế, đóng tàu… kể cả học tiếng Anh.
Năm 1840, Xiêm chủ động ký với Mỹ một hiệp ước khác nhằm đẩy mạnh trao đổi thương mại giữa hai nước. Sau hiệp ước 1833 – 1840, Mỹ không thõa mãn tham vọng của mình, Mỹ muốn lấn tới hơn nữa, điều đó thôi thúc Mỹ tiếp tục tìm kiếm thị trường, đòi hỏi ở Xiêm nhiều hơn nữa. Năm 1850, tổng thống Mỹ Taylor đã cử Josep Barestier đến Băng Cốc yêu cầu Xiêm xét lại hiệp ước đã ký năm 1833. Triều đình Xiêm một mặt tỏ ra nhu mỳ, tiếp thu những ý kiến của Mỹ đưa ra song mặt khác soạn thảo một công hàm gửi tới Josep Barestier với nội dung từ chối những yêu cầu của Mỹ.
Trước sự từ chối của Xiêm, Mỹ đe dọa tấn công Xiêm, Mỹ tuyên bố rằng: Mỹ sẽ cấm thương nhân Xiêm tới Mỹ mua bán, kế tiếp Mỹ phát dộng phong trào bài trừ hàng hóa Xiêm. Mỹ đóng của không thông thương buôn bán với Xiêm, mục đích của Mỹ là cô lập Xiêm về kinh tế buộc Xiêm chấp nhận các điều khoản của Mỹ. Đứng trước tình hình đó, những nhà ngoại giao Xiêm vẫn tỏ ra bình tĩnh, vì họ cho rằng Mỹ không thể độc chiếm thị trường Xiêm vì nếu Mỹ độc chiếm Xiêm sẽ gặp phải sự kháng cự quyết liệt của vương quốc Anh, Ha Lan và một số nước tư bản khác vì những nước này đã ký với Xiêm nhiều hiệp ước thương mại. Kết quả đúng như Xiêm dự đoán, Mỹ chỉ nói như vậy nhưng sau đó lại tiếp tục đặt quan hệ với Xiêm.
Như vậy Xiêm đã khôn khéo tìm cách thiết lập quan hệ bang giao và thương mại với một số nước lớn phương Tây trong bối cảnh chung: Chủ nghĩa thực dân đang mở rộng chiến tranh xâm chiếm thuộc địa khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ La Tinh nữa đầu thế kỷ XIX đó là một thành công to lớn của Xiêm và nhờ đó họ đã giảm được áp lực về sự đe dọa đối với nền độc lập của mình từ phía các nước thực dân và tư bản Phương Tây, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp tục khống chế các nước xung quanh.
Trong đường lối đối ngoại của Xiêm, xuất phát từ nhận thức đúng đắn về bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực cũng như sự nhanh chóng phát triển thực lực của đất nước Xiêm biết cách “Lựa chiều” nhằm cân bằng quyền lực giữa các nước lớn để tồn tại và phát triển. 4 Biểu hiện trong quan hệ với Anh, Xiêm đã đi từng nước cờ khôn khéo: trước chiến tranh với Miến Điện, Xiêm là đối tượng xâm chiếm của Anh nhưng sau chiến tranh đã thay đổi vị trí trở thành đồng minh, cùng hưởng lợi trong cuộc chiến tranh Anh – Miến và đã thực sự bình đẳng với Anh trong hiệp ước thương mại Anh – Xiêm 1826. Tóm lại, trong quan hệ với các cường quốc phương Tây, chính quyền Xiêm khá mền dẽo, linh hoạt, “uốn theo chiều gió nhưng không gãy”, Rama III không dành cho các cường quốc đó nhiều quyền lợi mà chủ yếu vì quyền lợi dân tộc Thái, chỉ dành cho họ những quyền lợi vừa đủ để chính phủ các nước đó không thể ngây ra các cuộc chiến tranh xâm lược đối với Xiêm, để bảo vệ nền độc lập và phát triển đất nước.
Vậy vì sao Xiêm là nước duy nhất giữ vững được độc lập, không trở thành thuộc địa lý do là do sự khôn ngoan và khéo léo của các vi vua thái lan..Thời đó Thái Lan băng chiến thuật khôn ngoan vừa thương lựong với pháp, đâu kia lại thỏa hiệp với Anh, nhượng bộ Mỹ, nên Thái Lan được coi là vùng đất bất khả sâm phạm mà niếu nước A,P,M niếu nước nào chiếm Thai Lan tức là gây bất hòa giữa các nước này, vì vậy Thai lan hâu như tồn tại trong suốt khoản thời gian này.
Nguyên nhân gián tiếp là do từ lâu Thái Lan đã mở cửa lưu thông với các nước phương tây đồng thời tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của phương tây. Vua Thái Lan đã từ lâu am hiểu về phương tây và đến đời con cháu của họ vẫn mang tư tưởng tiến bộ.
Hi vọng, với bài viết này Vietnamtravelco sẽ mang lại cho các bạn câu trả lời chính xác nhất vì sao Thái Lan không bị xâm lược. Ngoài ra, nếu đang muốn sang Thái Lan bạn cũng có thể lựa chọn các chương trình tour free and easy thái lan chỉ bao gồm vé máy bay và khách sạn, các bạn có thể thoải mái sắp xếp lịch trình riêng cho mình.
Bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp là vấn đề đang được cả thế giới quan tâm. Có rất nhiều hội nghị tầm cỡ toàn cầu hoặc khu vực đã được tể chức để bàn bạc và tìm ra hướng giải quyết nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hiện nay. Trong mấy năm gần đây, những thiên tai ghê gớm, khủng khiếp như động đất, sóng thần, cháy rừng, lũ lụt... xảy ra liên miên, chứng tỏ bà mẹ thiên nhiên đang nổi giận và trừng phạt loài người vì những hành vi cố tình xâm phạm và phá vỡ quy luật cân bằng sinh thái.
Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường sống cũng là một vấn đề nan giải vì nó gây ra hàng loạt hậu quả nghiêm trọng. Có thể lấy hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh làm dẫn chứng để chứng minh cho vấn đề này.
Điều đáng buồn là hiện tượng vứt rác, xả rác ra đường, ra những nơi công cộng rất phổ biến. Đó là hành động thể hiện ý thức bảo vệ môi trường quá kém, thể hiện nếp sống thiếu văn hóa, văn minh. Nguyên nhân của hiện tượng này là do lối sống lạc hậu, ích kỉ, chỉ biết đến quyền lợi cá nhân. Người ta nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch là được, còn những chỗ khác thì mặc kệ. Cho nên rác rưởi, đồ phế thải, xác súc vật chết... cứ "vô tư" ném toẹt ra đường vì đã có đội vệ sinh dọn dẹp. Cách nghĩ như thế là vô cùng thiển cận. Nhiều người nghĩ sai, làm sai sẽ dẫn đến tình trạng rác rưởi đầy đường, đầy vườn hoa, sông hồ, kênh rạch... gây mất mĩ quan thành phố và vô tình tiếp tay cho các dịch bệnh có điều kiện thuận lợi để phát triển, làm suy yếu sức khỏe của con người.
Nếu có dịp đặt chân tới thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, chắc du khách sẽ rất ấn tượng về một thành phố của cây xanh, nhưng đồng thời cũng là thành phố của rác. Rác hiện diện khắp nơi: trên đường phố, trên cả những thắng cảnh nổi tiếng như Hồ Gươm, Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và lan tràn cả đến những nơi tôn nghiêm như Văn Miếu – Quốc Tử Giám cùng các ngôi chùa cổ kính. Còn bến tàu, bến xe, công viên... thì không chỗ nào mà không có rác.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, vài năm trở lại đây tình hình có khá hơn. Tệ nạn vứt rác ra đường đã giảm bớt, tuy vậy ở các khu nhà dân ven kênh rạch hoặc gần chợ búa ở ngoại thành thì tình hình ô nhiễm vẫn đáng sợ. Rác chất thải "sống chung" với người hết năm này qua năm khác. Chính quyền thành phố đã phải tốn nhiều công sức, tiền bạc để giải quyết vấn đề nhức nhối này nhưng vẫn chưa thể dứt điểm.
Tệ nạn thứ hai là khí thải, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất trong nội thành cũng thường xuyên gây ô nhiễm nghiêm trọng. Khói bụi, tiếng ồn, mùi hôi thối... ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của cả cộng đồng. Tình trạng này cũng đang được cải thiện bằng cách di dời các nhà máy, xí nghiệp... ra vùng ngoại vi thành phố, xa hẳn khu vực dân cư sinh sống và xây dựng hệ thống lọc nước thải công nghiệp đúng tiêu chuẩn an toàn.
Một vấn đề nhức nhối khác là nạn "lâm tặc" phá rừng và việc đồng bào vùng cao khai hoang làm rẫy cũng góp phần không nhỏ vào việc phá rừng. Chủ trương đóng cửa rừng, giao rừng cho dân quản lí... hầu như rất ít hiệu quả. Nhiều người chỉ nhìn thấy nguồn lợi trước mắt là lâm sản khai thác được từ rừng mà không nhận thức được hậu quả lâu dài. Tàn phá rừng đồng nghĩa với tàn phá cái nôi của sự sống, tàn phá chính cuộc sống của mình. Nạn lũ lụt, núi lở, lũ quét, lũ ống hàng năm cướp đỉ sinh mạng của bao người. Đất đai bạc màu, xói mòn... vì không được rừng bảo vệ. Nguồn dưỡng khí từ rừng càng ngày càng ít đi, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của con người.
Khai thác rừng để phục vụ nhu cầu cuộc sống là cần thiết, nhưng muốn được hưởng lợi ích lâu dài thì chúng ta phải biết bảo vệ rừng. Bên cạnh việc chặt cây lấy gỗ, chúng ta phải biết trồng rừng. Trồng rừng để phủ xanh đất trống, đồi trọc; trồng rừng để tái tạo môi trường sống cho nhiều loài chim quý, thú quý; trồng rừng để tạo vành đai phòng hộ bảo vệ đất đai, mùa màng...
Bảo vệ rừng đi đôi với việc bảo vệ hệ thống sông ngòi và biển cả. Hiện tượng cố tình biến kênh rạch, sông ngòi thành những cống lộ thiên có sẵn để chuyên chở nước thải công nghiệp cần phải chấm dứt để trả lại vẻ đẹp vốn có và sự sống cho chúng. Hiện tượng dùng chất nổ để khai thác thủy hải sản phải bị nghiêm cấm và trừng phạt vì đó là tội ác hủy diệt thiên nhiên.
Rừng vàng, biển bạc không phải là của kho vô tận, khai thác mãi thì cũng vơi, cũng cạn. Con người nếu không biết bảo vệ thiên nhiên thì cũng có nghĩa là không biết bảo vệ chính mình. Cho nên, việc cần làm trước mắt là chúng ta hãy tự giác và nhiệt tình tham gia phong trào làm cho thành phố hoặc địa phương nơi ta ở trở nên xanh – sạch – đẹp. Nếu ai cũng có ý thức bảo vệ môi trường sống thì tin chắc rằng ngôi nhà chung của cả nhân loại là Trái Đất sẽ ngày càng tươi đẹp.
Kick cho mk đi
Please
Kính thưa các thầy cô và các bạn thân mến!
Chủ đề của bài phát biểu của tôi là môi trường. Môi trường ở xung quanh nơi chúng ta đang sống. Đó là cội nguồn của sự sống. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào môi trường. Nó định hướng cuộc sống của chúng ta và xác định sự trưởng thành và phát triển đúng đắn của chúng ta. Chất lượng cuộc sống xã hội tốt hay xấu phụ thuộc vào chất lượng môi trường tự nhiên. Nhu cầu của con người đối với thực ăn, nước, nơi trú ẩn và những thứ khác phụ thuộc vào môi trường xung quanh chúng ta. Có một chu kỳ cân bằng tự nhiên tồn tại giữa môi trường và cuộc sống của con người, thực vật và động vật. Xã hội loài người đóng vai trò quan trọng trong việc làm suy thoái môi trường tự nhiên, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống trên hành tinh này. Tất cả các hành động của con người trong thế giới hiện đại này đều tác động trực tiếp đến toàn bộ hệ sinh thái.
Tất cả các hành động đã mang lại một thay đổi lớn trong hành tinh này dẫn đến nhiều vấn đề về môi trường. Nhu cầu ngày càng tăng của công nghệ và công nghiệp trong thời hiện đại ảnh hưởng đến tự nhiên. Các phát minh mới về công nghệ ngày càng nhiều đã thay đổi sự tương tác của những người có môi trường cho phép dân số tăng trưởng nhiều hơn. Các công nghệ hiện đại có sức mạnh to lớn đã thay đổi toàn bộ môi trường theo một cách không tưởng. Việc ứng dụng bừa bãi vào môi trường là gốc rễ của cuộc khủng hoảng sinh thái. Sự gia tăng liên tục trong công nghệ và hành vi của con người rất nghiêm trọng. Những công nghệ tuyệt vời như vậy đã trở thành lý do của tăng trưởng kinh tế trong thế kỷ 20, tuy nhiên nó đã ảnh hưởng đáng kể đến tài nguyên thiên nhiên.
Một số vấn đề môi trường đang gia tăng nhanh chóng trong dân số thế giới, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, cạn kiệt rừng và đất ngập mặn, xói mòn đất và các rặng san hô, cạn kiệt nước ngầm, thiếu nước uống sạch, sự biến mất của các loài thực vật, xâm nhập mặn ở châu Phi, châu Á, châu Mỹ Latinh và Trung Đông. Một số vấn đề khác bao gồm mất đa dạng sinh học, sự tuyệt chủng nhanh chóng của một số loài động vật quan trọng, sự sụp đổ của ngành thủy sản, ô nhiễm không khí và nguồn nước, tăng nhiệt độ khí quyển, làm mỏng tầng ôzôn, tàn phá những dòng sông, biển cả và ác tài nguyên dưới lòng đất.
Mặc dù khoa học và công nghệ đã thay đổi triệt để các điều kiện thích ứng với thiên nhiên, chúng ta vẫn cần phải thích nghi với môi trường. Xã hội loài người gắn liền với môi trường. Chúng ta không được phép quên rằng con người là loài động vật đầu tiên và tầng cao nhất của giới động vật, chia sẻ không gian sống với các loài động vật khác trong môi trường mà chúng phụ thuộc lẫn nhau. Đó là trách nhiệm của chúng ta để bảo vệ môi trường và trái đất; và tạo ra cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc ở đây.
Cảm ơn bạn!
Kick cho mk đi
Please