K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 5 2021

??????Thiếu đề rồi bạn

31 tháng 5 2021

sao thiếu

Đề thi đánh giá năng lực

30 tháng 5 2021

Kênh nước hay thủy đạo (tiếng Anh: channel) là một khái niệm trong ngành địa lý tự nhiên, dùng để chỉ một lòng sông, một vũng lầy hoặc một eo biển có đáy (lòng) và bờ

Danh từ

Rạch Tầm Bót ở thành phố Long Xuyên

rạch

  1. Đường dẫn nước từ sông vào đồng ruộng, thuyền bè có thể đi lại.

    Đào kênh, rạch.

    Hệ thống kênh, rạch.

  2. Đường rãnh nhỏ, nông được xẻ trên mặt ruộng để gieo hạt, trồng cây.

    Xẻ rạch.

    Đánh rạch.

Động từ

rạch

  1. Dùng vật sắc nhọn làm đứt từng đường trên bề mặt.

    Rạch giấy.

    Bị kẻ cắp rạch túi.

  2. Ngược dòng nước để lên chỗ cạn, thường nói về cá rô.

    Bắt cá rô rạch.

30 tháng 5 2021

Trồng, mỗi ngày tưới nước đầy đủ nếu mà nhiều lá quá có thể tỉa bớt. Thế là xong bạn nhé

30 tháng 5 2021

Trả lời :

K rõ câu hỏi

~HT~

29 tháng 5 2021

 Thành phố Hồ Chí Minh (tên cũ là Sài Gòn) cách Thủ đô Hà Nội 1.730 km (đường bộ) vổ phía Bắc; từ trung tâm thành phố cách biển Đông 50 km theo đường chim bay, có 15 km bờ biển, diện tích tự nhiên là 2.095 km2, dân số hơn 6 triệu người.

   Tính từ khi địa danh Sài Gòn được ghi vào sổ sách của triều đình nhà Nguyễn năm 1608 cho đến nay thì vùng đất này đã được hơn 300 tuổi. Vào đầu năm Mậu Dần (1698), quan Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh Chúa Nguyễn vào mở mang vùng đất phía Nam. Ông đã thành lập phủ Gia Định, lập xứ Đổng Nai, Sài Gòn, dựng dinh Trấn Biên... Vùng đất Nam Bộ lúc đó đất rộng người thưa. Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, số dân ở đây chỉ khoảng 500 ngàn người. Thống đốc quân sự người Pháp là Bonard chia tỉnh Gia Định thành 3 phủ, mỗi phủ có 3 huyện, dưới huyện có tổng, dưới tổng có xã. Sài Gòn lúc bấy giờ là tỉnh lị của Gia Định. Năm 1864, Chợ Lớn được tách ra khỏi Sài Gòn vì đây là khu vực sinh sống của người Hoa đang trên đà làm ăn thịnh vượng.

   Cuối thế kỉ XIX, Sài Gòn đã mang dáng dấp của một đô thị theo kiểu phương Tây. Trong nội thành đã xuất hiện những trục đường lớn có ngã tư, ngã năm, ngã bảy. Nhiều nhà tầng xây bằng gạch, xi măng cốt thép, quảng trường, bến cảng, công viên... lần lượt mọc lên. Trên địa bàn Sài Gòn có tới hàng trăm sông ngòi, kênh rạch nhưng sông lớn không nhiều, lớn nhất là sông Sài Gòn mà đoạn chảy qua thành phố dài 106 km. Hệ thống đường sông từ thành phố lên miền Đông và xuống các tỉnh miền Tây, sang Cam-pu-chia đểu thuận lợi. Khí hậu ở đây chia ra làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung binh là 27°c. Thổ nhưỡng chủ yếu do phù sa cũ và phù sa mới bổi đắp mà thành.

   Do vị trí địa lí và những yếu tố đất đai, khí hậu thuận lợi nên vùng đất này sớm trở thành nơi hội tụ của các thương nhân bốn biển, năm châu. Cảng Sài Gòn được thành lập từ năm 1862. Các tàu buôn của người phương Tây và các nước lân cận đã cập cảng Sài Gòn. Các địa danh như: chợ cấu ông Lãn- chợ Cẩu Kho, chợ Binh Tây, chợ Rẫy, chợ Bến Thành... dần dần trở nên quen thuộc đối với thương nhân.

   Cuối thế kỉ XIX (ngày 15/3/1874) Tổng thống nước Cộng hoà Pháp kí sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Từ đó, hàng loạt công trình được xây dựng: Những công sở, trường học, bệnh viện, nhà thờ, trung tâm thương mại, công nghệ dịch vụ, giao thông vận tải, bưu điện... Đầu thế kỉ XX, Chợ Lớn lại sáp nhập vào Sài Gòn. Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành đô thị lớn nhất Đông Dương, được ca ngợi là Hòn ngọc Viễn Đông. 

   Sài Gòn được cả thế giới biết đến vì đây là nơi mở đầu cho cuộc kháng chiến anh dũng chống quân xâm lược Pháp và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước bằng chiến dịch Hổ Chí Minh lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kì họp thứ nhất của Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà Xã hội Chù nghĩa Việt Nam tổ chức vào ngày 2 tháng 7 năm 1976 đã quyết định đổi tên Sài Gòn là thành phố Hổ Chí Minh.

   Toàn thành phố hiện nay có 24 quận, huyện. Nội thành có các quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Tân Binh, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Binh Tân và Tân Phú. Ngoại thành có các huyện Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. Tổng cộng là 317 phường, xã, thị trấn. Các dân tộc: Kinh, Hoa, Chăm, Khmer... cùng chung sống trên mảnh đất trù phú này.

   Dân số của thành phố khoảng 6 triệu người, từ khắp đất nước tụ họp vé đây làm ăn, sinh sống. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư nhiều vào lĩnh vực sản xuất hàng hoá, kinh doanh và dịch vụ... nên thành phố đã có quy mô của một trung tâm công nghiệp, thương mại lớn nhất nước. Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam, bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và đường không. Từ thành phố đi Hà Nội có quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông Dương. Sàn bay quốc tế Tân Sơn Nhất cách trung tâm thành phố 7 km, là sân bay lớn nhất ở Việt Nam với hàng chục đường bay quốc tế.

   Ngoài cơ sở hạ tầng khá tốt, mạng lưới giao thông tương đối thuận tiện, thành phố Hổ Chí Minh còn có tiềm năng du lịch rất lớn. Nơi đây là vùng đất gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta kể từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước Việt Nam và cũng là nơi người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước (1911). Gắn liền với sự kiện đó, Bến Nhà Rồng và Bảo tàng Hổ Chí Minh là di tích quan trọng, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Các di tích cách mạng khác như Địa đạo Củ Chi, 18 thôn Vươn Trầu, Đền thờ liệt sĩ Bến Dược, các nhà bảo tàng, nhà hát lớn, các công trình kiến trúc thời Pháp lá những điểm du lịch hấp dẫn. Gần đây, thành phố đã xây dựng thêm nhiều khu du lịch như Thanh Đa, Bình Quới, các khu vui chơi giải trí như Đầm Sen, Kì Hoà, Suối Tiên,.. đã thu hút lượng du khách khá đông. Thành phố đang tiến hành tôn tạo các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc cổ... khôi phục nền văn hoá truyền thống kết hợp với tổ chức lễ hội, các tua du lịch sinh thái để khai thác tiềm năng và phát triển công nghệ du lịch của thành phố.

   Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, thành phố Hổ Chí Minh có nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng như Bến Nhà Rồng, Cảng Sài Gòn, Đền thờ Quốc TỔ, Dinh Xã Tây (ủy ban Nhân dân Thành phố), Nhà hát lớn, Bưu điện Thành phố, các ngôi chúa cổ (chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Đinh Giác Viên...), các nhà thờ cổ như Đức Bà, Huyện Sĩ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...). Nhìn chung, Sài Gòn - Gia Định là nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hoá và có một nền văn hoá kết hợp hài hoà giữa truyền thống của người Việt, người Chăm, người Khơme với những nét đặc sắc của văn hoá phương Bắc và phương Tây.

   Có thể nói Sài Gòn - thành phố Hổ Chí Minh là trung tâm văn hoá, chính trị của miền Nam ra đời và phát triển khá sớm và phong phú của sách, báo, trường học, của đội ngũ trí thức và văn nghệ sĩ, các hoạt động giao lưu văn hoá, văn học, nghệ thuật diễn ra thường xuyên khiến cho Sài Gòn từ lâu đã là một thành phố có ảnh hưởng về văn hoá đối với cả nước. Với tiềm năng to lớn, trong một tương lai không xa, chắc chắn thành phố Hổ Chí Minh sẽ phát triển ngang tầm với các thành phố hiện đai, văn minh trong khu vực và trên thế giới.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/gioi-thieu-thanh-pho-ho-chi-minh-c37a16588.html#ixzz6wEAZBPFP

29 tháng 5 2021

BẠN KHAM KHẢO NHÉ!!!

Trời đã tang tảng sáng. Trước mắt em, không gian biến màu dần trong bước chuyển huyền ảo của rạng đông. Tầng tầng, lớp lớp bụi hồng ánh sáng lan toả khắp không gian như thoa phấn lên những toà nhà cao tầng của thành phố, khiến chúng trở nên nguy nga, diễm lệ. Màn đêm mờ ảo đang lắng dần rồi chìm vào đất. Thành phố mang tên Bác như bồng bềnh nổi giữa một biển hơi sương.

Giây phút kì diệu đã đến. Mặt trời đang mọc. Bầu trời lúc rạng sáng chuyển biến rất nhanh, có thể nhận rõ từng bước một. Phía Đông, sắc trắng đổi dần sang màu hồng phớt. Những tia sáng hình rẻ quạt xuyên thủng lớp mây dày xốp. Ánh sáng ban mai lan toả khắp nơi, cảnh vật bừng thức dậy trong làn gió trong lành, mát rượi. Hàng vạn ngôi nhà to nhỏ, cao thấp nhấp nhô dần dần hiện rõ đường nét, sắc màu. Những vùng cây xanh bỗng oà tươi trong nắng sớm. Hàng cây ven đường ướt sương, lấp lánh dưới ánh bình minh.

Đường phố bắt đầu huyên náo. Một ngày mới bắt đầu.

Trên đường, từng đoàn xe tải, xe lam, ba gác máy, hon đa, xe đạp... chở hàng hoá, thực phẩm toả về các chợ. Tiếng động cơ ồn ã, tiếng còi xin đường lanh lảnh khuấy động không gian.

Tiếng rao lảnh lót của những hàng quà sáng ngân dài dọc phố: “Ai xôi nóng đây! Bánh mì nóng mới ra lò đây! Bánh tiêu, bánh bò đây... ” hoà quyện vào nhau, tạo thành một thứ âm thanh vô cùng quen thuộc.

Trong dòng người ngược xuôi, giữa muôn màu áo của cán bộ, công nhân tới cơ quan, nhà máy, nổi bật lên sắc trắng của đồng phục học sinh đang tấp nập tới trường.

Nhịp điệu thôi thúc, hối hả của cuộc sống công nghiệp hoá ở một thành phố lớn đã cuốn hút mọi người. Gương mặt ai cũng tràn đầy một niềm phấn chấn và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của thành phố được vinh dự mang tên Bác kính yêu.

Em yêu mến và tự hào biết mấy về thành phố Hồ Chí Minh của em!

28 tháng 5 2021

Trần Quốc Tuấn tức hiệu là Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất, văn võ song toàn, có công lớn với dân tộc ta. Vào năm 1285, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết "Hịch tướng sĩ" nhằm khích lệ, kêu gọi các tướng sĩ đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Qua bài hịch, ta thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết của vị chủ tướng tài ba.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài hịch được thể hiện qua những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.

Ngay từ câu văn đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khơi gợi lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ. Trong đó có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; lại có cả những người bình thường, những kẻ bề tôi xa như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương như vậy thật toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa "lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ". Lịch sử nước Nam không thiếu anh hùng nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Điều đó thể hiện một cái nhìn rất phóng khoáng của ông: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu những tấm gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế "thời loạn lạc", buổi "gian nan của đất nước" cũng là lúc lòng yêu nước của ông thể hiện cao độ. Đọc tác phẩm, ta cảm nhận được những lời lẽ đanh thép, vạch trần tố cáo bộ mặt của kẻ thù. Với bản chất ngang tàn, hống hách chúng không chỉ coi thường dân ta mà còn sỉ nhục, lăng mạ triều điều từ vua đến quan: "đi lại nghênh ngang ngoài đường", "sỉ mắng triều đình", "bắt nạt tề phụ", "đòi ngọc lụa", "thu ngọc vàng", "vét của kho có hạn". Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ "sứ giặc" như "lưỡi cú diều","thân dê chó", "hổ đói"; ông đặt chúng ngang với lũ súc sinh, không còn liêm sỉ. Từ đó Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp cũng như đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.

Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng của mình "Ta thường tới bữa quên ăn; nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" và tột cùng là "chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Những hành động mạnh mẽ ấy không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà còn là ý chí quyết chiến quyết thắng, một phen sống chết với quân thù. Cao hơn nữa, ông còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho Tổ quốc: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm! Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết nên từ máu và nước mắt. Để rồi nó trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm; dồn nén thì khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và hình ảnh đã khắc họa được hình ảnh người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm người tướng sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn luôn quan tâm, sẻ chia, theo dõi những tướng sĩ dưới quyền khi xông pha trận bão cũng như khi thái bình: "không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng,...". Từng đây thôi cũng đủ hiểu ông là một vị tướng như thế nào! Trên cơ sở, mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước vận mệnh nước, lơ là cảnh giác trước kẻ thù "nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái dương để đãi yến ngụy sự mà không biết căm". Cái sai tiếp theo là hành động hưởng lạc: ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, lo làm giàu, quyến luyến vợ con,... Đồng thời ông cũng chỉ rõ hậu quả của tất cả những việc đó: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ hay thiêng liêng hơn là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ... Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhằm để đánh bại những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng và đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến nơi mà phúc như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là "chuyên tập sách này" - cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện "mới chỉ là đạo thần chủ" còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân "tức là kẻ nghịch thù". Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.

Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát", họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.

"Hịch tướng sĩ " của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.