Viết bài văn về liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm(26/11/1942 - 22/6/1970)
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Trần Đức Lương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1937 tại xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia cách mạng từ đầu năm 1955, vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 19/12/1959 .Trước khi bước vào chính trường, ông từng là kỹ sư địa chất, có nhiều năm nghiên cứu và công tác trong ngành địa chất ở miền Bắc
Ông lần lượt giữ các chức vụ quan trọng: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987–1992), Phó Thủ tướng Chính phủ (1992–1997) và được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam từ tháng 9/1997 đến tháng 6/2006. Trong thời gian này, ông cũng là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, thành viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII .
Với hơn nửa thế kỷ cống hiến, ông được đánh giá là nhà lãnh đạo kỹ trị, giản dị, cống hiến thầm lặng và gắn bó lâu dài với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Ông luôn đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên hết .
Ngày 20/5/2025, đồng chí Trần Đức Lương từ trần tại nhà riêng ở Hà Nội lúc 22 giờ 51 phút, hưởng thọ 88 tuổi. Lễ quốc tang được tổ chức trang trọng theo nghi thức Nhà nước trong hai ngày 24–25/5/2025, với sự tham gia của Ban Lễ tang cấp cao do Chủ tịch nước Lương Cường làm Trưởng ban
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy hiệu cao quý khác, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc .
Trần Đức Lương sẽ mãi được nhớ đến như một hình mẫu lãnh đạo tận tâm, nêu gương về sự gắn bó với nhân dân, trách nhiệm với đất nước và lối sống khiêm tốn, giản dị trong mọi hoàn cảnh.
Tham khảo
Chủ tịch nước Trần Đức Lương (1937-2025) là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn đổi mới.
Ông Trần Đức Lương sinh tại Quảng Ngãi, trải qua nhiều cương vị quan trọng, từ cán bộ kỹ thuật đến Phó Thủ tướng và Chủ tịch nước (1997-2006).
Trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước, ông cùng tập thể lãnh đạo kiên định đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Ông đặc biệt quan tâm củng cố đại đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường vị thế Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam đạt nhiều thành tựu kinh tế - xã hội, duy trì ổn định chính trị và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Chủ tịch nước Trần Đức Lương luôn được biết đến với phong cách làm việc sâu sát, giản dị, gần gũi và tấm lòng vì dân. Ông là nhà lãnh đạo có tầm nhìn, luôn đặt lợi ích quốc gia và hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng về sự cống hiến không ngừng nghỉ cho Tổ quốc. Dù ông đã đi xa, những đóng góp của ông sẽ mãi được ghi nhớ và trân trọng trong lịch sử dân tộc.
Tham khảo

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 – 4/10/2013) là một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, một vị tướng tài ba được cả thế giới ngưỡng mộ. Ông không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là nhà chính trị, nhà văn hóa lớn, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước.
Về ngoại hình, Đại tướng có vóc dáng thanh mảnh nhưng toát lên vẻ cương nghị, uy nghiêm. Đôi mắt ông sáng, tinh anh, thể hiện sự thông tuệ và quyết đoán. Nụ cười hiền hậu, gần gũi nhưng ẩn chứa sự kiên định. Dù tuổi cao, ông vẫn giữ phong thái điềm đạm, trí tuệ minh mẫn.
Tầm vóc vĩ đại của Đại tướng nằm ở trí tuệ quân sự phi thường và đạo đức cách mạng trong sáng. Ông là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với tài năng thao lược, khả năng phân tích sắc bén và ý chí sắt đá, ông đã chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, làm nên chiến thắng "chấn động địa cầu".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn được biết đến với biệt danh "Vị tướng của nhân dân". Ông luôn gần gũi, thấu hiểu và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Tấm lòng nhân ái, sự giản dị và đức độ của ông đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Ông là biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí quật cường và khát vọng hòa bình.
Sự ra đi của Đại tướng là mất mát lớn lao, nhưng di sản và tinh thần của ông vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Ông mãi mãi là một huyền thoại, một tấm gương sáng về tài năng, đức độ và lòng yêu nước.
Tham khảo

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dền (1929 - 15/2/1943), là người đội trưởng đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Sinh ra tại làng Nà Mạ, Cao Bằng, Kim Đồng sớm bộc lộ sự nhanh nhẹn, thông minh và lòng yêu nước mãnh liệt.
Ngay từ nhỏ, em đã tích cực tham gia cách mạng, làm nhiệm vụ liên lạc, trinh sát, canh gác, đưa thư cho cán bộ Việt Minh. Với sự khéo léo và dũng cảm, Kim Đồng thường ngụy trang bằng cách bắt cá, chăn trâu để qua mắt địch, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ nguy hiểm được giao.
Ngày 15 tháng 2 năm 1943, trong một lần đi liên lạc, Kim Đồng phát hiện địch đang vây bắt cán bộ. Không chút do dự, em đã nhanh trí lừa địch, chạy về phía suối Lê-nin, đánh lạc hướng chúng để bảo vệ an toàn cho đồng chí cán bộ. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi mới 14 tuổi.
Cái chết của Kim Đồng là một tấm gương sáng ngời về lòng dũng cảm, tinh thần hy sinh vì Tổ quốc của tuổi thiếu niên Việt Nam. Tên tuổi của em mãi mãi đi vào lịch sử, là niềm tự hào và tấm gương để các thế hệ đội viên noi theo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước và ý chí đấu tranh kiên cường. Từ làng Sen, Nghệ An, Người đã sớm nuôi hoài bão giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ.
Năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba khắp thế giới để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn. Trở về Tổ quốc năm 1941, Người đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân giành độc lập trong Cách mạng tháng Tám 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo của Người, dân tộc ta đã vượt qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại, giành lại tự do, thống nhất đất nước.
Không chỉ là nhà lãnh đạo thiên tài, Bác Hồ còn là tấm gương sáng ngời về đạo đức. Cuộc đời Người là hiện thân của sự giản dị, khiêm tốn, và tấm lòng yêu thương nhân dân vô bờ bến, luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Dù Người đã đi xa, nhưng tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, là kim chỉ nam soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
Trên bầu trời lịch sử Việt Nam, có một ngôi sao sáng không bao giờ lụi tắt – đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, mà còn là ánh sáng soi đường cho cả nhân loại yêu chuộng hòa bình và tự do. Bác sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – một vùng quê nghèo nhưng giàu truyền thống yêu nước. Từ tuổi thiếu niên, Bác đã nuôi chí lớn, ra đi tìm đường cứu nước với mong muốn đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào.
Hành trình hơn 30 năm bôn ba nơi xứ người của Bác là minh chứng cho tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí kiên cường và trí tuệ vượt bậc. Người đã học hỏi tinh hoa văn hóa nhân loại, tìm đến con đường cách mạng vô sản, lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam – ngọn cờ dẫn lối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Bác, dân tộc ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Không chỉ là một nhà lãnh tụ kiệt xuất, Bác Hồ còn là một con người giản dị, gần gũi và đầy lòng yêu thương. Người sống thanh bạch, cần kiệm và luôn quan tâm đến từng người dân, từng chiến sĩ. Những lời dạy của Bác như “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” hay “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều thế hệ người Việt Nam noi theo.
Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ từ trần trong niềm tiếc thương vô hạn của toàn thể dân tộc. Dù Người đã ra đi, nhưng tinh thần và tư tưởng của Bác vẫn sống mãi trong trái tim mỗi người con đất Việt. Để tưởng nhớ công lao trời biển của Người, nhân dân ta đã xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình – nơi từng chứng kiến thời khắc thiêng liêng Bác đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Lăng Bác chính thức được khánh thành – trở thành nơi hội tụ niềm tin, lòng kính yêu và biết ơn của nhân dân cả nước.
Hằng ngày, dòng người từ khắp mọi miền tổ quốc, từ những em học sinh nhỏ bé đến các cụ già tóc bạc, đều lặng lẽ xếp hàng vào Lăng viếng Bác. Trước di hài của Người, ai ai cũng nghẹn ngào xúc động, nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Bác, tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh.
Hồ Chí Minh – Người là kết tinh của tinh thần dân tộc và thời đại, là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước, ý chí tự lực và nhân ái bao la. Hình ảnh Bác giản dị trong bộ kaki, đôi dép cao su mộc mạc và nụ cười hiền từ sẽ mãi mãi sống trong lòng mỗi người dân Việt Nam như một ánh sáng không bao giờ tắt.

Các em không tham gia vào các lớp học do người khác mời tham gia. Nếu cần đổi tên hiển thị thì liên lạc với cô qua chat Olm. Tài khoản của cô luôn có gắn kèm chức danh theo tên khi chat:
Quản trị viên Olm. Như vậy các em sẽ không bị lừa và cô sẽ đổi tên cho em một cách nhanh chóng.

Mỗi người đều dành một ngày của mình cho các hoạt động khác nhau, người thì học tập, người làm việc. Và dưới đây là một ngày hoạt động của em.
Đó là hoạt động của ngày hôm qua, ngày thứ Hai đầu tuần sau hai ngày nghỉ là thứ Bảy và Chủ nhật để bước vào một tuần học tập mới. Em học buổi sáng và buổi học bắt đầu từ lúc bảy giờ vì vậy đồng hồ báo thức của em luôn được đặt lúc sáu giờ sáng. Đúng giờ, đồng hồ báo thức reo vang, em thức dậy và vươn vai tập bài thể dục buổi sáng quen thuộc chỉ trong năm phút. Sau đó em đi đánh răng, rửa mặt sạch sẽ và ăn sáng. Tô mì nấu với trứng đã được mẹ chuẩn bị sẵn đặt ngay ngắn trên bàn đang đợi em.
Sau khi bữa sáng đã xong, em liền thay quần áo em chọn cho mình chiếc áo trắng và quần sẫm màu vì hôm nay là thứ hai đầu tuần có buổi chào cờ, khăn quàng đỏ, mũ ca nô và sách vở đã được em chuẩn bị từ tối hôm trước. Em chải tóc gọn gàng và đạp xe đến trường. Hôm nay có năm tiết, một tiết chào cờ và bốn tiết học trên lớp. Những tiết học cứ thế trôi qua cho đến tiết cuối cùng, rồi tiếng trống trường đã điểm báo hiệu kết thúc buổi học. Hôm nào cũng vậy cứ đến trưa là cái bụng lại đói meo, nhưng vẫn phải cố gắng đạp xe về nhà. Vì năm tiết nên chúng em về đến nhà cũng khá muộn, về nhà bố mẹ em đã ăn cơm rồi để riêng hai phần ra phần em và chị gái em cũng học cấp ba nên về muộn hơn em. Mẹ giục em đi ăn cơm kẻo đói, em vội vã đi thay quần áo, rửa mặt và ăn cơm trưa.
Sau khi đã ăn no em lên giường đi ngủ khoảng một tiếng và thức dậy tiếp tục ngày hoạt động của mình. Em thức dậy lúc hai giờ chiều, vì chiều nay được nghỉ nên em sẽ ở nhà học bài và giúp mẹ một số công việc nhà. Trời khá là nắng nên tranh thủ khi trời chưa mát, em ngồi vào bàn học xem qua một số bài tập thầy cô giao để giảm bớt gánh nặng bài tập vào buổi tối. Mày mò với đống bài tập nhưng mãi không ra em liền gọi Hương – đứa bạn học cùng lớp ở ngay cạnh nhà em qua chơi và hai đứa cùng giải bài tập. Khi số bài tập đã được giải quyết gần hết, Hương về nhà còn em đi nhổ cỏ vườn rau và tưới rau giúp mẹ.
Thấy trời cũng bắt đầu tối, em quét sân quét nhà sạch sẽ và lấy rau chuẩn bị bữa tối. Chị gái em chuẩn bị ôn thi đại học nên khá bận với việc học tập nên không có nhiều thời gian giúp đỡ bố mẹ. Còn em, chương trình học cũng không phải quá vất vả nên có nhiều thời gian rảnh hơn chị. Bữa tối đã được chuẩn bị xong, em đợi bố mẹ đi làm và chị gái đi học về ăn cơm. Tranh thủ lúc đợi em đi tắm và thu quần áo, gấp xếp gọn gàng vào tủ. Khi mọi người đã về đầy đủ, cả nhà ăn cơm rất vui vẻ, mẹ khen em nhỏ mà đã giúp đỡ được mẹ rất nhiều việc. Chị em thấy vậy tỏ vẻ ganh tỵ với em và bảo: “chẳng qua chị bận học thôi nhé!”, em mỉm cười sung sướng, ăn cơm xong chị gái em nhận việc rửa bát, còn em thì ngồi vào bàn học giải quyết số bài tập còn lại và chuẩn bị sách vở cho ngày mai.
Xong xuôi, em xem ti vi với bố mẹ một lúc rồi đi ngủ sớm để ngày mai thức dậy cho đúng giờ. Đi ngủ em nghĩ về một ngày hoạt động của mình với nhiều việc thật ý nghĩa.
Một ngày hoạt động trôi qua với nhiều việc làm, tuy mệt mỏi nhưng em cảm thấy rất vui vì đã học tập thật hiệu quả và giúp đỡ bố mẹ một số công việc dù rất nhỏ.
Thế thôi ngày bình thường của tôi có thế thôi ạ.

Bữa cơm tối nay thật thịnh soạn (kiểu câu ai thế nào). Mẹ đang dọn (kiểu câu ai làm gì) món cá kho tộ đậm đà và canh rau má thanh mát lên bàn. Bố là một người đàn ông giản dị (kiểu câu ai là gì) nhưng luôn trân trọng những khoảnh khắc này. Cả nhà quây quần, tiếng nói cười rộn ràng (tính từ). Mỗi món ăn đều chứa đựng tình yêu thương của mẹ. Tôi ăn (động từ) chậm rãi, cảm nhận sự ấm áp của gia đình mình.
- Chiều nay, cả nhà em quây quần bên mâm cơm ấm áp. Mẹ em là người nấu những món ăn ngon nhất (Câu "Ai là gì?" - gạch chân). Bố em bày bát đũa ra bàn (Câu "Ai làm gì?" - gạch chân) rất cẩn thận. Em bé rất háo hức (Câu "Ai thế nào?" - gạch chân) vì được ăn món trứng rán thơm phức. Không khí bữa cơm thật vui vẻ và đầm ấm.
- Chú thích:
- Động từ: bày, nấu, háo hức
- Tính từ: ấm áp, ngon, thơm phức
Tham khảo

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!
Bác sĩ – Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm: Trái tim yêu nước giữa chiến trường lửa đạn
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có biết bao người con ưu tú đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc. Một trong những hình ảnh đẹp và xúc động nhất là bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, người con gái Hà Nội mang trái tim nhân hậu đã để lại cho thế hệ sau một cuốn nhật ký đầy cảm xúc và lý tưởng sống cao đẹp.
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Hà Nội, trong một gia đình trí thức. Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội, chị đã từ bỏ cuộc sống yên bình nơi đô thành để lên đường vào chiến trường ác liệt ở miền Nam. Năm 1966, chị tình nguyện vào công tác tại chiến trường Quảng Ngãi, làm bác sĩ cho lực lượng giải phóng. Giữa những năm tháng chiến tranh khốc liệt, chị không chỉ là người thầy thuốc giỏi mà còn là người mẹ, người chị hết lòng vì thương bệnh binh và nhân dân vùng giải phóng.
Điều đặc biệt ở bác sĩ Đặng Thùy Trâm chính là cuốn nhật ký mà chị viết trong những năm công tác. Những dòng chữ mộc mạc, chân thực đã ghi lại biết bao nỗi đau, sự hy sinh, khát vọng hòa bình và tình yêu Tổ quốc cháy bỏng. Trong đó, người đọc không chỉ thấy một bác sĩ mà còn là một người phụ nữ trẻ đầy nghị lực, dũng cảm vượt lên gian khó, luôn sống vì lý tưởng và đồng đội.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, chị anh dũng hy sinh khi mới 27 tuổi trong một trận càn của quân Mỹ. Cuốn nhật ký của chị được một người lính Mỹ tên là Frederic Whitehurst giữ lại và hơn 30 năm sau đã được trao lại cho gia đình chị. Khi được xuất bản năm 2005 với tên gọi "Nhật ký Đặng Thùy Trâm", cuốn sách đã gây xúc động mạnh mẽ cho hàng triệu độc giả trong và ngoài nước.
Cuộc đời bác sĩ Đặng Thùy Trâm tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng rực rỡ. Chị là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến: giàu lòng yêu nước, sống lý tưởng, đầy nhân hậu và hy sinh thầm lặng. Tấm gương của chị là nguồn cảm hứng để thế hệ trẻ hôm nay sống đẹp, sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Tham khảo
Tham khảo
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm (1942 – 1970) là biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy cống hiến của chị để lại di sản vô giá về lòng yêu nước, ý chí kiên cường và y đức.
Tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội, chị xung phong vào chiến trường miền Nam khốc liệt, công tác tại Bệnh xá Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1967.
Tại đây, chị không quản hiểm nguy, tận tụy cứu chữa thương bệnh binh và nhân dân. Chị là bác sĩ giỏi chuyên môn, đồng thời là người chị, người bạn đầy tình thương. Trong hoàn cảnh thiếu thốn, chị vẫn kiên cường bám trụ, hoàn thành nhiệm vụ cao cả.
Những dòng nhật ký của chị, được tìm thấy sau này, lay động hàng triệu trái tim, thể hiện tâm hồn trong sáng, lòng nhân ái, ý chí sắt đá và tình yêu quê hương cháy bỏng.
Ngày 22/6/1970, bác sĩ Đặng Thùy Trâm anh dũng hy sinh ở tuổi 27. Tấm gương dũng cảm, tận hiến và y đức của chị đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, là ngọn lửa bất diệt nhắc nhở chúng ta về giá trị hòa bình và những con người đã hy sinh vì Tổ quốc.