K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi:       (Lược một đoạn: Thám tử Sherlock Holmes nhận được một bức thư xin trợ giúp trong một vụ án kì lạ từ hai viên thanh tra của Scotland Yard – Gregson và Lestrade. Trong một căn nhà bỏ hoang tại khu Lauriston Garden bỗng xuất hiện thi thể của một người đàn ông. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai rộng, tóc quăn và đen, râu rậm...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi: 

     (Lược một đoạn: Thám tử Sherlock Holmes nhận được một bức thư xin trợ giúp trong một vụ án kì lạ từ hai viên thanh tra của Scotland Yard – Gregson và Lestrade. Trong một căn nhà bỏ hoang tại khu Lauriston Garden bỗng xuất hiện thi thể của một người đàn ông. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai rộng, tóc quăn và đen, râu rậm xén ngắn. Trên thi thể không hề có bất kì một thương tích nào nhưng trong gian phòng lại có nhiều vết máu. Tại hiện trường vụ án xuất hiện nhiều điểm đáng ngờ, gần thi thể xuất hiện một chiếc nhẫn cưới của một người phụ nữ, trên một mé tường tối tăm có chữ “Rache” được viết bằng máu. Còn bên ngoài căn nhà có dấu vết để lại của một chiếc xe ngựa, dấu chân của một con ngựa và vết giày của hai người đàn ông. Những manh mối này khiến cho họ phải đau đầu vì không xác định được nghi phạm và động cơ gây án. Thông qua điều tra sơ bộ, các viên thanh tra đã xác định được danh tính của nạn nhân là Drebber. Ngay khi vụ án dần được hé lộ, Lestrade phát hiện một vụ án giết người khác cũng xuất hiện chữ “Rache” được viết bằng máu dưới thi thể của nạn nhân. Nạn nhân lần này là Staggerson – thư kí của Drebber. Cuộc điều tra càng thêm khó khăn và bế tắc vì các viên thanh tra và Holmes không thể xác định được mục đích thật sự của hung thủ là gì. Sau đó, Holmes phát hiện ra manh mối về viên thuốc được tẩm độc trong căn phòng của nạn nhân thứ hai. Bằng sự mưu trí, ông đã dụ hung thủ đến căn hộ của mình và bắt hắn tại đây, trước sự chứng kiến, giúp sức của Gregson, Lestrade và người bạn cùng phòng Waston. Nhờ đó, vụ án được hé mở. Dưới đây là sự diễn giải lại quá trình suy luận của Holmes qua cuộc trò chuyện với bác sĩ Waston.

      – Để giải quyết một vấn đề như vậy, cái quan trọng là lập luận ngược chiều. […] Đây là trường hợp người ta nói cho anh biết cái kết cục và tự anh phải tìm ra tất cả những sự việc đã dẫn đến cái kết cục ấy. Tôi xin kể lại với anh các giai đoạn khác nhau trong cách lập luận của tôi. Như anh đã biết, tôi đã đi bộ khi gần đến hiện trường, đầu óc hoàn toàn không có một dự kiến hay thiên kiến gì. Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rõ những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đã đậu ở đấy đêm trước. Tôi biết đây không phải là một chiếc xe nhà mà là xe chở thuê, căn cứ ở khoảng cách hẹp giữa hai bánh xe. Chiếc xe chở thuê thông thường ở London nhỏ hẹp hơn nhiều so với xe nhà. Sau đó tôi đã chầm chậm đi theo lối qua vườn mà nền đất là một loại đất sét, rất dễ nhận thấy vết chân, đối với con mắt nhà nghề của tôi thì mỗi dấu vết mang một ý nghĩa… Tôi đã thấy những vết chân nặng nề của các viên cảnh sát, nhưng tôi cũng thấy những vết chân của hai người đã đi qua khu vườn này trước đám cảnh sát kia: ở một đôi chỗ vết chân của hai người bị những vết chân cảnh sát đè lên, xóa đi. Qua đó, nó cho tôi biết đã có hai người lạ mặt đến đây hồi đêm, một người rất cao lớn – căn cứ theo chiều dài của bước chân và người kia ăn mặc sang trọng, căn cứ theo vết giầy nhỏ nhắn, thanh mảnh. Vào trong nhà, người đi giày sang trọng nằm đó. Vậy thì, người cao lớn là kẻ đã gây ra án mạng. Không có thương tích trên người nạn nhân, nhưng qua những nét kinh hoàng lưu lại trên mặt, tôi đoán hẳn nạn nhân đã được báo về số phận mình trước khi chết. Những người chết vì bệnh tim hoặc vì một nguyên nhân tự nhiên nào khác không bao giờ nét mặt lại nhăn nhúm đến như vậy. Ngửi môi nạn nhân, tôi thấy có mùi chua chua, tôi kết luận nạn nhân đã bị cưỡng bức uống thuốc độc. Chính vẻ căm thù và khiếp sợ biểu lộ trên mặt đã dẫn tôi đến suy đoán ấy. Tôi đi đến kết luận này bằng phương pháp loại trừ vì không có một giả thiết nào khác có thể giải thích được tất cả những chi tiết kia. Cưỡng bức nạn nhân uống thuốc độc hoàn toàn không phải là điều mới trong lịch sử hình sự. Tiếp theo đó là câu hỏi lớn: tại sao có vụ ám sát này? Tiền bạc không phải là động cơ. Vụ này dính đến chính trị hay đến phụ nữ? Trước hết tôi ngả về giả thiết thứ hai. Những kẻ ám sát chính trị một khi làm xong nhiệm vụ thì vội bỏ đi ngay. Ở đây ngược lại, thủ phạm đã để dấu vết trong khắp gian phòng, chứng tỏ y đã lưu lại đây khá lâu. Vậy đây là một vụ thanh toán do hận thù cá nhân chứ không phải là một vụ án chính trị. Khi phát hiện ra những chữ viết trên tường, tôi càng tin chắc sự suy đoán của tôi là đúng, đây quá rõ là một mưu mẹo nhằm đánh lạc hướng. Đến khi tìm thấy chiếc nhẫn thì tôi coi việc xác định giả thiết là đã xong. Rõ ràng thủ phạm đã dùng chiếc nhẫn này để gợi lại với nạn nhân một người phụ nữ đã chết hoặc vắng mặt. Chính là khi đó tôi hỏi Gregson xem trong bức điện gửi đi Cleverland, ông ta có hỏi một chi tiết gì đặc biệt về quá khứ của Drebber không. Chắc anh còn nhớ Gregson đã trả lời tôi là không. Sau đó, tôi xem xét tỉ mỉ gian phòng. Việc này giúp tôi thấy rõ tầm vóc, loại thuốc xì gà và móng tay dài của thủ phạm. Vì không có dấu vết vật lộn nào nên tôi kết luận chỗ máu giây ra trên sàn nhà hẳn là máu mũi của thủ phạm lúc bị quá khích. Tôi thấy những vết máu này trùng hợp với những vết chân của thủ phạm. Không mấy ai, trừ phi là người thuộc tạng rất thừa máu, lại chỉ vì xúc cảm mà chảy máu mũi. Vì vậy, tôi dám nghĩ rằng thủ phạm chắc là một người lực lưỡng, mặt đỏ vì xung huyết. Thực tế đã chứng minh là tôi đoán đúng. Ở ngôi nhà đó ra về, tôi đã vội vàng làm cái việc mà Gregson bỏ qua. Tôi điện cho Sở cảnh sát thành phố Cleverland, hỏi về những tình huống xung quanh cuộc hôn nhân của Drebber. Bức điện trả lời cho biết Drebber đã nhờ cảnh sát thành phố che chở cho mình khỏi bị một kẻ tên là Hope ám hại. Kẻ này là tình địch của Drebber trong một chuyện yêu đương cũ và hiện nay kẻ này đang có mặt tại châu Âu. Đến lúc ấy, tôi biết là đã nắm trong tay tất cả các đầu mối, chỉ còn có việc tóm cổ thủ phạm nữa thôi. Tôi đã tin chắc rằng người ấy đi cùng với Drebber vào ngôi nhà và người đánh xe chỉ là một. Vết chân ngựa day đi day lại trên đường cho thấy không có người giữ cương nó. Vậy thì người đánh xe lúc ấy ở đâu nếu không phải là ở trong nhà? Bởi không có ai dám gây ra một án mạng ngay trước mắt một người thứ ba để về sau người đó sẽ tố cáo mình. Cuối cùng, giả sử thủ phạm muốn theo dõi nạn nhân của mình qua các phố ở London thì liệu y còn tìm được cách nào tốt hơn là đóng vai người đánh xe ngựa không. Tất cả những khía cạnh ấy buộc tôi phải tìm Hope trong số những người đánh xe ngựa ở Luân Đôn. Nếu y làm nghề đánh xe thì không có lý do gì y lại không tiếp tục nghề ấy. Trái lại, theo cách nhìn của y, mọi sự thay đổi đột ngột có thể làm cho người ta chú ý đến y. Chắc y cũng tiếp tục nghề cũ, ít nhất trong một thời gian. Cũng không có lý do gì để giả thiết rằng y sống dưới một cái tên giả. Y cần gì phải đổi tên ở một nước không có ai quen biết? Tôi đã nhờ đến mấy chú bé lang thang, phái chúng đến hỏi tất cả các chủ xe London cho đến khi tìm được người mà tôi tìm. Chúng đã tìm được. Vụ giết Stanggerson là một việc hoàn toàn bất ngờ, nhưng dù sao cũng không thể ngăn ngừa được. Anh thấy không, tất cả những điều đó là một chuỗi sự việc logic móc nối nhau liên tục, không một kẽ hở, không một chỗ nào gián đoạn.

     – Thật là tuyệt vời! – Watson kêu lên – Công lao của anh đáng được mọi người biết đến. Phải đăng một bài báo về vụ này. Nếu anh không viết thì tôi sẽ viết thay anh.

(Sherlock Holmes toàn tập, Arthur Conan Doyle, NXB Văn học)

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản. 

Câu 3. Câu ghép dưới đây là câu ghép đẳng lập hay câu ghép chính phụ? Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép đó.

Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rõ những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đã đậu ở đấy đêm trước.

Câu 4. Vì sao vụ án này lại được coi là một vụ án nan giải, hóc búa?

Câu 5. Nhận xét về cách lập luận của nhân vật Sherlock Holmes trong văn bản. 

0
6 tháng 1

đám trẻ


Đám trẻ đang nô đùa thì trời đổ mưa.

6 tháng 1

Bình minh và minh chủ là danh từ

Bắc Ninh, vùng đất với bề dày lịch sử, nổi tiếng với những giai điệu ngọt ngào của quan họ, cùng với những di tích chùa, đình, miếu, và mạo nguy nga, được xem là những ngọc bội quý giá của đất nước. Trong danh sách này, ngoài chùa Phật Tích, một trong những di tích cổ xưa nhất và mang ý nghĩa sâu sắc đối với tâm hồn người dân Bắc Ninh, chúng ta không thể không nhắc đến chùa Dâu, một ngôi chùa cổ tự truyền thống Phật giáo nổi tiếng đã tồn tại từ xa xưa cho đến tận ngày nay trên vùng đất này. Chùa Dâu, còn được biết đến với các tên gọi khác như chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự, là ngôi chùa đầu tiên xuất hiện và phát triển tại Việt Nam, đánh dấu sự ra đời sớm của Phật giáo trên đất nước này. Chùa Dâu hiện nay được xem như một danh lam nổi bật ở vùng Bắc kinh xưa, với kiến trúc kỳ diệu gồm hàng trăm gian chùa, tháp chín tầng, và cầu chín nhịp. Ngôi chùa này được xây dựng vào thời kỳ đầu Công Nguyên, khoảng từ năm 187 đến năm 226, và nó đã tồn tại và gắn bó mật thiết với lịch sử văn hóa và Phật giáo Việt Nam suốt hàng ngàn năm. Từ thời kỳ sơ khai đến ngày nay, chùa Dâu đã trải qua nhiều lần phục dựng và trùng tu để đối phó với thử thách của thời gian và chiến tranh. Chùa Dâu cũng là nơi trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam, kết hợp sự ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa, thu hút nhiều cao tăng từ Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch các kinh Phật, và đào tạo tăng ni. Một thời, nơi đây được xem như trung tâm của Phật giáo trong nước. Giống như nhiều ngôi chùa khác trên lãnh thổ Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", với bốn dãy nhà hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Trong tiền đường của chùa Dâu, bạn có thể thấy các tượng Hộ pháp và tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương trưng bày tượng Cửu Long, cùng với các tượng Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi ở hai bên. Thượng điện chứa tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), cùng với các thần tiên. Các tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phía sau chùa chính. Ở giữa khu vực thờ cúng chùa là tượng Bà Dâu, còn được gọi là nữ thần Pháp Vân, với vẻ uy nghi và trầm mặc. Với chiều cao gần 2m, tượng này có gương mặt đẹp và nổi bật với nốt ruồi lớn giữa trán, gợi nhớ đến vẻ đẹp của những nàng vũ nữ Ấn Độ và quê hương Tây Trúc. Bên cạnh tượng Bà Dâu, có các tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước có một hộp gỗ đặt Thạch Quang Phật, được cho là em út của Tứ Pháp. Bên trái của thượng điện, bạn có thể thấy tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người sáng lập phái thiền tông ở Việt Nam, đã từng đến và kiết trụ thiền định tại chùa Dâu. Bức tượng này được đặt trên một kệ gỗ hình sư tử đội tòa sen và có thể đã được tạo vào thế kỷ 14. Ở trung tâm sân chùa trải rộng, bạn có thể thấy tháp Hòa Phong. Tháp này được xây dựng bằng loại gạch lớn thủ công, mang màu sắc sẫm già của vại sành. Mặc dù thời gian đã làm mất đi sáu tầng trên cùng của tháp, nhưng tháp vẫn tỏ ra uy nghi và vững chãi, vẹn nguyên sau hàng ngàn năm. Tầng 2 của tháp có bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp" ở mặt trước. Tháp vuông vức, với mỗi cạnh dài gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Bên trong tháp, bạn có thể thấy một quả chuông đồng đúc vào năm 1793 và một cái khánh đúc vào năm 1817. Bốn tượng Thiên Vương có chiều cao 1,6m được đặt ở bốn góc của tháp. Phía trước tháp, bên phải có một tấm bia vuông được dựng vào năm 1738, bên trái có một tượng cừu đá dài 1,33m và cao 0,8m. Tượng cừu đá là dấu vết duy nhất còn tồn tại từ thời nhà Hán. Sự phát triển của chùa Dâu còn kể đến truyền thuyết về phật mẫu Man Nương, tạo nên sự độc đáo và thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian độc đáo của người dân Bắc Ninh. Mỗi năm, lễ hội tôn vinh các vị Tứ Pháp, Man Nương lại được diễn ra, thể hiện lòng sùng bái và tín ngưỡng sâu sắc của cư dân vùng đất lúa nước Bắc. Lễ hội được tổ chức với nghi lễ trang nghiêm và theo truyền thống để kỷ niệm ngày Phật mẫu Man Nương sinh nữ nhi. Lễ hội bao gồm nhiều hoạt động dân gian và biểu diễn sôi động, thu hút du khách từ khắp nơi, cũng như các tăng ni và đạo hữu tham gia để cúng lễ, dâng hương và tham gia lễ hội. Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi qua, phần "lễ hội" của lễ hội Dâu có thể đã mất đi một phần, nhưng vẻ đẹp và giá trị văn hóa truyền thống vẫn còn nguyên trong lòng người dân. Di tích lịch sử của chùa Dâu đã gắn bó với đời sống dân gian suốt hàng thế kỷ. Mặc dù ngày nay, di tích chùa Dâu có thể không còn như trước, nhưng ý nghĩa và giá trị của nó vẫn sống mãi trong trái tim của con người.

6 tháng 1

câu B nha

Người đầu tiên lên vũ trụ là Yuri Gagarin, một phi hành gia người Nga. Vào ngày 12 tháng 4 năm 1961, anh đã thực hiện chuyến bay vũ trụ đầu tiên trên tàu vũ trụ Vostok 1, bay quanh Trái Đất một lần trong 108 phút. Chuyến bay lịch sử này đã mở ra kỷ nguyên khám phá vũ trụ của loài người.

 

Thông tin chi tiết:

 

- Tên: Yuri Alekseyevich Gagarin

- Quốc tịch: Liên Xô (Nga)

- Ngày sinh: 9 tháng 3 năm 1934

- Ngày mất: 27 tháng 3 năm 1968

- Chuyến bay: Vostok 1

- Ngày bay: 12 tháng 4 năm 1961

- Thời gian bay: 108 phút

- Độ cao: 327 km

- Số vòng quay Trái Đất: 1 lần

6 tháng 1

Chú cuội 

Nguyễn Hiền

6 tháng 1
Nguyễn Hiền là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới mười ba tuổi. Cuộc đời ông gắn với nhiều giai thoại dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến nay.
6 tháng 1

Lý Thái Tổ hoặc Lý Công Uẩn