K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 ĐIỂM) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5. (Trình bày ngắn gọn) Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu nhận biết thể thơ của văn bản. Câu 2. Chỉ ra các hình ảnh miêu tả thiên nhiên có trong bốn câu đầu của bài thơ.  Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau: Dòng sông lặng ngắt như tờ, Sao đưa thuyền...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 ĐIỂM)

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5. (Trình bày ngắn gọn)

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu nhận biết thể thơ của văn bản.

Câu 2. Chỉ ra các hình ảnh miêu tả thiên nhiên có trong bốn câu đầu của bài thơ. 

Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau:

Dòng sông lặng ngắt như tờ,

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.

Câu 4. Anh/Chị hiểu như thế nào về hai câu thơ sau?

Lòng riêng, riêng những bàn hoàn,

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng. 

Câu 5. Thông điệp anh/chị rút ra từ bài thơ là gì? (Viết đoạn văn từ 5 - 7 dòng)

Bài đọc:

​ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG ĐÁY

Dòng sông lặng ngắt như tờ,

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.

Bốn bề phong cảnh vắng teo,

Chỉ nghe cót két, tiếng chèo thuyền nan.

Lòng riêng, riêng những bàn hoàn(1)

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng.

Thuyền về, trời đã rạng đông,

Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.

Viết ngày 18 - 8 - 1949

(Đi thuyền trên sông Đáy, Hồ Chí Minh, nguồn: https://www.thivien.net/)

Chú thích:

- Bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy" được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác năm 1949 trong một lần Bác từ Khấu Lấu (thuộc xã Tân Trào) xuôi thuyền về huyện lỵ Sơn Dương thăm một lớp học của cán bộ kháng chiến.

- (1) Sử dụng hình thức lẩy Kiều (sửa chữa hay thay đổi một vài chữ trong câu Kiều nhằm diễn đạt một đề tài): Ở đây, tác giả mượn lời một câu thơ trong Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du (Câu 771: Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn).

0
ĐỀ SỐ 1:I. ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:SỰ TÍCH BÔNG HOA CÚC          Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, không ai còn nhớ rõ là tự bao giờ. Ở một vùng nọ có hai mẹ con rất nghèo sống với nhau. Người mẹ đau yếu luôn. Mắt bà mờ dần đi, còn tai thì ù không nghe rõ. Con gái bà còn rất nhỏ. Bệnh tình của người mẹ ngày một nặng thêm. Bà không ăn,...
Đọc tiếp

ĐỀ SỐ 1:

I. ĐỌC HIỂU (5.0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

SỰ TÍCH BÔNG HOA CÚC

          Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, không ai còn nhớ rõ là tự bao giờ. Ở một vùng nọ có hai mẹ con rất nghèo sống với nhau. Người mẹ đau yếu luôn. Mắt bà mờ dần đi, còn tai thì ù không nghe rõ. Con gái bà còn rất nhỏ. Bệnh tình của người mẹ ngày một nặng thêm. Bà không ăn, không ngủ được. Em bé thương mẹ lắm. Em luôn luôn ở bên mẹ, nhưng cũng không thể làm cho mẹ khỏi bệnh được. Người ta bảo em rằng: ở một nơi kia, có ông thầy lang giỏi, nên em quyết tâm đi tìm thầy chữa bệnh cho mẹ. Em đi suốt cả ngày đêm. Em đi mãi, đi mãi, rồi một hôm em đến một ngôi chùa. Em vừa đói vừa mệt, nằm vật ra trước cổng chùa. Tấm lòng hiếu thảo của em động đến Trời Phật, nên một ông thầy chùa đi ra ngoài về, gặp thấy em, ông đưa vào chùa, và cho em ăn uống, nghe đầu đuôi câu chuyện. Thấy em hiếu thảo, ông đưa cho em một bông hoa Cúc, và dặn cách làm thuốc cho mẹ uống. Ông Sư còn cho em biết là bông Cúc có bao nhiêu cánh thì mẹ em sẽ sống thêm được bấy nhiêu năm. Em bé cám ơn rối rít, rồi mừng rỡ, em chào từ giã nhà sư ra về. Vì mong cho mẹ sống thật lâu, em ngồi xuống bên đường, lấy tay xé các cánh hoa cúc ra thành nhiều cánh nhỏ. Từ đó hoa Cúc có vô số cánh nhỏ li ti. Bà mẹ đã được chữa lành bệnh và sống rất lâu với người con gái hiếu thảo của mình. Ngày nay hoa Cúc là một trong những vị thuốc nam được dùng nhiều trong các đơn thuốc, có tên là Liêu Chi.

(Trích “Sự tích hoa cúc trắng”, Theo Nguồn internet)

Câu 1: (1 điểm): Xác định thể loại của đoạn trích trên? Căn cứ vào đâu em xác định được thể loại? Kể tên hai văn bản cùng thể loại mà em đã được học?

Câu 2: Xác  định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

Câu 3: Đoạn trích được kể theo ngôi thứ mấy?

Câu 4: Chỉ ra nhân vật chính trong đoạn trích trên? Chỉ ra yếu tố hoang đường kì ảo trong đoạn trích trên và cho biết ý nghĩa?

Câu 5: Giải thích nghĩa từ “hiếu thảo” trong câu “Thấy em hiếu thảo, ông đưa cho em một bông hoa Cúc, và dặn cách làm thuốc cho mẹ uống.

Câu 6: Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn “Em đi mãi, đi mãi, rồi một hôm em đến một ngôi chùa. Em vừa đói vừa mệt, nằm vật ra trước cổng chùa.”?

Câu 7: Em rút ra được bài học gì từ đoạn văn? Hãy viết đoạn văn ngắn (3-5 câu) trình bày bài học đó?

Phần II. Làm văn (4,0 điểm)

Thuyết minh tường thuật lại một sự kiện mà e có dịp tham gia hoặc chứng kiến ./.

0
II. PHẦN VIẾT (6.0 ĐIỂM) Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây.  Bài đọc: THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU Cuối trời mây trắng bay Lá vàng thưa thớt quá Phải chăng lá về...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6.0 ĐIỂM)

Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.

Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây. 

Bài đọc:

THƠ TÌNH CUỐI MÙA THU

Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
Hơi lạnh qua bàn tay

Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ

Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
- Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may

(Trích Tự hát, Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1984)

Chú thích: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân  thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường. Xuân Quỳnh viết "Thơ tình cuối mùa thu" khi chị không còn ở tuổi đôi mươi mà đã là người phụ nữ trải qua nhiều biến động của cuộc đời. Bài thơ như một cách để Xuân Quỳnh trải lòng mình về tình yêu sau nhiều sóng gió. 

0
15 tháng 3

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!


I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5. (Trình bày ngắn gọn) Câu 1. Xác định đề tài của văn bản.  Câu 2. Đối tượng thông tin được đề cập đến trong văn bản là gì?   Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của việc sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản. Câu 4. Anh/Chị hiểu như thế nào về câu văn Phong tục buộc...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5. (Trình bày ngắn gọn)

Câu 1. Xác định đề tài của văn bản. 

Câu 2. Đối tượng thông tin được đề cập đến trong văn bản là gì?  

Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của việc sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản.

Câu 4. Anh/Chị hiểu như thế nào về câu văn Phong tục buộc chỉ cổ tay của người Lào không chỉ độc đáo, mà còn mang đậm bản sắc văn hóa tâm linh, khiến người được buộc chỉ cảm thấy bình an, hạnh phúc và phấn khởi hơn trong cuộc sống.?

Câu 5. Văn bản gợi cho em suy nghĩ gì về đối tượng thông tin?

Bài đọc:

LỄ BUỘC CHỈ CỔ TAY - PHONG TỤC ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI LÀO

      Lễ buộc chỉ cổ tay (còn gọi là lễ Sou khoẳn) thường được người Lào tổ chức trong các dịp quan trọng, như: Bunpimay (Tết Lào), lễ cưới hỏi, ma chay, lễ tân gia… Lễ buộc chỉ tay của người Lào có nhiều ý nghĩa khác nhau, nếu được tổ chức vào dịp năm mới thì lễ buộc cổ chỉ tay để cầu may mắn cho bản thân và các thành viên trong gia đình; đối với đám cưới, lễ buộc chỉ cổ tay để chúc phúc cho cô dâu, chú rể; khi nhà có người ốm đau, gia đình tổ chức làm lễ để cầu sức khỏe cho người bị ốm; hay khi nhà có người mất thì họ hàng sẽ tổ chức lễ buộc chỉ cầu cho linh hồn được siêu thoát, con cháu được bình an...
      Lễ buộc chỉ cổ tay gồm 2 phần chính là nghi thức cúng và nghi thức buộc chỉ. Theo phong tục, nghi lễ phải được tổ chức ở nơi trang trọng nhất trong nhà, cơ quan. Người chủ trì nghi lễ theo nguyên tắc là Mophon (thầy cúng), nhà sư, nhà sư đã hoàn tục hoặc các bậc cao niên có uy tín trong dòng tộc, dòng họ làm lễ buộc chỉ cổ tay. Để chuẩn bị mâm lễ cúng, quan trọng nhất là tháp chỉ, các sợi chỉ được buộc vào mâm cúng và đủ dài để người dự lễ có thể nắm được, xung quanh tháp chỉ có thể trang trí hoa, trên đỉnh có cắm một cây nến vàng; lễ vật cúng gồm trứng luộc, thịt lợn, nước, cơm nếp, bánh kẹo…

       Chuẩn bị tiến hành lễ, tất cả những người tham dự sẽ ngồi xung quanh mâm cúng, khi tiến hành lễ, mỗi người tham dự sẽ dùng ngón cái của bàn tay trái kẹp một phần của sợi chỉ và truyền phần còn lại cho những người ngồi sau cứ thế kéo dài cho đến bao giờ hết sợi chỉ mới thôi. Ðến giờ lành, thầy cúng sẽ châm cây nến vàng trên đỉnh của mâm lễ và bắt đầu bài khấn, mọi người ngồi xung quanh mâm cúng, tay trái cầm sợi chỉ, tay phải chạm nhẹ vào mâm, những người ngồi xa, không với tới mâm thì vẫn chắp tay trái trước ngực, tay phải chạm nhẹ vào khuỷu tay của người ngồi phía trước để truyền lời nguyện của thầy cúng tới tất cả các thành viên. Khi cúng xong, thầy cúng cầm cuộn chỉ đã được chia thành nhiều đoạn buộc chỉ, đọc lời cầu phúc cho mọi người và phân phát cho người lớn, người cao tuổi để tiến hành buộc chỉ cổ tay cầu phúc, cầu an cho các con, cháu và khách tham dự lễ. Những người khác cũng lấy chỉ trên mâm cúng và buộc cho người khác để cầu phúc cho nhau. Theo quan niệm của người Lào, để những lời cầu chúc có hiệu nghiệm, người được buộc phải để sợi chỉ trên tay trong ít nhất ba ngày, không được tháo chỉ vì bất cứ lí do nào.

Ngữ văn 12, Chân trời sáng tạo, olm

       Phong tục buộc chỉ cổ tay của người Lào không chỉ độc đáo, mà còn mang đậm bản sắc văn hóa tâm linh, khiến người được buộc chỉ cảm thấy bình an, hạnh phúc và phấn khởi hơn trong cuộc sống. Trải qua nhiều thập kỷ, người dân Lào vẫn giữ nguyên vẹn lễ buộc chỉ cổ tay vào các dịp đầu năm mới, cưới hỏi, ma chay... Ðây là lễ tục tâm linh mang đậm bản sắc dân tộc, vì thế cần được bảo tồn, giữ gìn trong thời kì hội nhập văn hóa như hiện nay.

(Nguyễn Cúc, Tạp chí Quân đội nhân dân, số 4, ngày 17/4/2021)

0
14 tháng 3

phải có ngữ cảnh chứ bạn,hay bài văn gì đó mình mới biết,chứ bình thường con ngựa biết nói chuyện à