K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1. (2 điểm)      Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.  Câu 2. (4 điểm)      Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau: (Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm)

     Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử. 

Câu 2. (4 điểm)

     Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích sau:

(Tóm tắt: Thời buổi chiến loạn, Thị Phương cùng mẹ chồng phải chạy rừng thẳm để lánh nạn. Mẹ chồng đau ốm, Thị Phương tình nguyện dâng đôi mắt mình cho thần linh để đổi lấy thuốc cứu mẹ.)

Thị Phương: (Nói sử)  - Trình lạy ông, khoan khoan, rẽ rẽ

                                      Để tôi xin dẫn nỗi sự tình

                                      Ông sinh phúc mở lòng nhân đức

Thần linh:                    - Ta ăn mắt già, không ăn mắt trẻ.

Thị Phương: (Nói sử)  - Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba

                                      Già mong trẻ để mà trông cậy

                                      Chồng tôi khi ấy

                                      Đi thú nước Xiêm

                                      Vắng mặt khuất tin

                                      Sự nhà không viết

                                      Tử sinh lưỡng biệt

                                      Chồng một nơi, vợ lại một nơi

                                      Ông chẳng thương đến mẹ con tôi

                                      Nguyện thiên địa: tôi xin dâng mắt. 

(Thổ địa ra khoét mắt Thị Phương.)

Thị Phương: (Hát vãn) - Khoét mắt dâng thần

                                      Huyết rơi lai láng cực lòng con thay

                                      Ông hưởng lấy mắt này

                                      Xin ông phù hộ, mẹ tôi rày được bình an

Thần linh: (Nói)           Khen Thị Phương con người có nghĩa lại có nhân

                                      Thương mẹ chồng khoét mắt dâng thần

                                      Tai nạn ấy sau này ắt khỏi

                                      - Truyền thổ địa, hạt điện môn!

                                      [...]

Mụ:                                - Giời ơi, ông ấy khoét mắt con tôi

Thị Phương:                - Mẹ ở đâu, mẹ dắt con với mẹ ơi!

                                      (Hát vãn) Khi xưa con dắt mẹ đi

                                      Bây giờ mù mịt, mẹ thì dắt con

Mụ: (Hát tiếp)               - Có sinh, có đẻ cho cam

                                      Nàng dâu nuôi mẹ thế gian mấy người.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

1
2 tháng 12 2024

Câu 1: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) thuyết phục người khác từ bỏ thói quen mua sắm không kiểm soát trên các sàn thương mại điện tử.

Trong thời đại số hiện nay, các sàn thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, mang lại sự tiện lợi trong việc mua sắm. Tuy nhiên, nhiều người lại rơi vào thói quen mua sắm không kiểm soát, khiến bản thân rơi vào tình trạng chi tiêu vượt quá khả năng. Việc này không chỉ gây thiệt hại về tài chính mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống. Khi mua sắm không cần thiết, chúng ta sẽ dễ dàng tích lũy những món đồ không sử dụng đến, từ đó lãng phí tiền bạc và không gian sống. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào việc mua sắm qua mạng có thể dẫn đến cảm giác thiếu thốn, lo âu, và không kiểm soát được nhu cầu thực sự. Để khắc phục điều này, mỗi người cần tự ý thức về nhu cầu của bản thân, xác định rõ ràng những gì thật sự cần thiết và có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Chỉ khi biết tiết chế và mua sắm có trách nhiệm, chúng ta mới có thể đảm bảo một cuộc sống ổn định, hài hòa về tài chính và tâm lý.

Câu 2: Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật Thị Phương trong đoạn trích trên.

Trong văn học Việt Nam, nhân vật Thị Phương trong đoạn trích từ tác phẩm chèo cổ "Trương Viên" của tác giả Hà Văn Cầu là hình mẫu điển hình của người phụ nữ nhân hậu, hi sinh vì gia đình và có tấm lòng vĩ đại. Qua lời nói, hành động và tâm trạng của nhân vật, người đọc có thể cảm nhận được sự hy sinh cao cả và tình thương yêu vô bờ của Thị Phương dành cho mẹ chồng trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh loạn lạc.

Trước hết, Thị Phương là một người phụ nữ hết lòng vì gia đình. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, Thị Phương và mẹ chồng phải chạy trốn trong rừng sâu để tránh hiểm nguy. Mẹ chồng của Thị Phương lại bị bệnh nặng, cần thuốc để cứu chữa nhưng trong lúc này, không có cách nào để có được thuốc. Trước tình cảnh đó, Thị Phương đã quyết định hi sinh đôi mắt của mình để dâng lên thần linh, mong thần có thể cứu mẹ chồng khỏi bệnh tật. Hành động này cho thấy sự hi sinh vô điều kiện của Thị Phương đối với gia đình, thể hiện một tình yêu thương sâu sắc đối với mẹ chồng, mặc dù mẹ chồng là người không phải sinh thành ra mình. Điều này càng chứng tỏ phẩm chất cao đẹp và lòng nhân ái của Thị Phương.

Ngoài sự hi sinh, Thị Phương còn thể hiện sự kiên cường, dũng cảm trong việc đối mặt với thử thách. Khi Thị Phương nói với thần linh về tình trạng khổ sở của mẹ chồng, từ sự mong mỏi của người phụ nữ này, ta thấy được sự quyết tâm mạnh mẽ và niềm tin vào phép màu. Dù biết mình phải chịu đau đớn, mất mát lớn lao, nhưng Thị Phương vẫn dũng cảm đối diện và không hề lùi bước. Trong cảnh này, nhân vật Thị Phương không chỉ là người con dâu hiếu thảo mà còn là hình mẫu của sự vững vàng và kiên định.

Mối quan hệ giữa Thị Phương và thần linh cũng là một điểm đặc biệt trong đoạn trích. Thị Phương không chỉ cầu xin thần linh mà còn có những lời van xin rất chân thành, tha thiết, trong đó không thiếu sự khẩn cầu đầy cảm động. Câu nói “Mẹ chồng tôi đã bẩy mươi ba, già mong trẻ để mà trông cậy” không chỉ cho thấy lòng hiếu thảo mà còn phản ánh được tâm trạng của một người phụ nữ lo lắng cho tương lai của gia đình mình. Thị Phương không chỉ là hình mẫu của lòng hiếu thảo mà còn là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh – những người âm thầm hy sinh, gánh vác mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ gia đình.

Hành động dâng mắt của Thị Phương tuy đau đớn và tàn nhẫn, nhưng cũng thể hiện một lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng tột cùng. Hình ảnh Thị Phương bị khoét mắt, cùng với những lời ca “Khoét mắt dâng thần, huyết rơi lai láng cực lòng con thay” khiến người xem không khỏi xúc động trước tình yêu thương vô bờ bến mà cô dành cho mẹ chồng. Dù phải trả giá bằng đôi mắt của mình, Thị Phương vẫn hy vọng vào sự bảo vệ của thần linh để mẹ chồng khỏi nguy hiểm, dù sự hy sinh ấy mang đậm sự bi thương và đau đớn.

Cuối cùng, qua hình ảnh Thị Phương, tác giả muốn gửi gắm thông điệp về lòng hy sinh, về tình yêu thương gia đình và lòng kiên cường của người phụ nữ trong hoàn cảnh chiến tranh. Thị Phương không chỉ là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam thời chiến mà còn là hình mẫu lý tưởng của những giá trị nhân văn, sự hi sinh vì người thân trong mọi hoàn cảnh, dù có phải đối diện với gian khổ và mất mát.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến   Ảnh: Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội       Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

Ngữ văn 10, Văn bản thông tin, olm 

Ảnh: Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội

      Cột cờ Hà Nội được xây dựng xong từ năm 1812 vào thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long. Trải qua hơn 200 năm in dấu và “sống” cùng những thăng trầm của mảnh đất Thủ đô ngàn năm văn hiến, những phần hư hỏng của Cột cờ đã được trùng tu lại, nhưng vẫn giữ được hiện trạng ban đầu. Và Cột cờ Hà Nội hiện nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. 

      Cột cờ Hà Nội trước đây còn có tên gọi Kỳ đài Hà Nội. Thời nhà Nguyễn, Kỳ đài còn có chức năng là vọng canh, vì theo trục bắc-nam, kiến trúc này chỉ cách Đoan Môn khoảng 300m, cách điện Kính Thiên 500m và cách cửa Bắc chừng gần 1.000m. Từ trên đỉnh của kỳ đài có thể quan sát cả một vùng khá rộng trong và ngoài khu thành cổ.

      Nhìn tổng thể cột cờ gồm những khối lăng trụ xếp chồng nhau, cao thót dần từ dưới lên trên. Bố cục cân đối ấy đã tạo những đường nét thẳng, khoẻ khoắn, vững vàng. Đứng dưới chân cột cờ, dù cảm thấy đỉnh cao ngất, nhưng không hề có cảm giác nặng nề, mà trái lại, dáng vẻ của nó hài hoà, thanh thoát giữa các tam cấp, thân cột và vọng canh. Ở mỗi cấp, tường xây được trang trí bằng những hoa văn khác nhau, tuy đơn giản nhưng lại tạo ra những đường nét mềm mại và mang vẻ đẹp riêng cho từng cấp.

      Công trình kiến trúc cổ kính này được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một, mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có 2 cầu thang bằng gạch cổ dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa thông gió, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không đề chữ. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m, có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Ở cửa hướng bắc được bố trí hai cầu thang lên sân thượng phía bên phải và trái, mỗi cầu thang gồm 14 bậc, có tay vịn bằng sắt. Sân thượng được bao quanh bằng lan can gỗ cùng với tường hoa trổ những hình lục giác có hình vuông ở giữa, được đan lồng với nhau trông tựa hình mạng nhện. 

      Trên tầng này là phần thân của cột cờ, cao 18,2m; hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có 54 bậc cầu thang xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình hoa thị và 6 lỗ hình dẻ quạt. Những lỗ này được đặt dọc các mặt, mỗi mặt có từ 4 đến 5 lỗ. Nhờ có các lỗ thông hơi chạy xung quanh thân cột nên ánh sáng tự nhiên và không khí lúc nào cũng được thông thoáng.

      Đỉnh Cột Cờ (Vọng canh) được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa sổ tương ứng với tám mặt, có thể đủ cho 5-6 người đứng quan sát. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4m, cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Phần mái giống như hình nón đội, xương mái làm bằng bê tông cốt thép, lợp ngói và giữa đỉnh mái có cột sắt cùng với ròng rọc để treo cờ.

      Toàn bộ cột cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ là 41,4m. Điều đặc biệt của cột cờ là giữa những ngày Hà Nội nóng nhất, nhiệt độ bên trong cột cờ vẫn luôn mát mẻ như có máy lạnh. Hơn nữa, kết cấu các cửa lên xuống của cột cờ được xây dựng rất khoa học, mỗi khi trời mưa to, nước cũng không thể chảy vào trong lòng tháp.

      Biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến

      Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được treo lên Cột cờ Hà Nội. Chính vì vậy, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, hình ảnh Cột cờ Hà Nội đã được in trang trọng trên đồng tiền được phát hành đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

      Đến ngày 10-10-1954, Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn - ngày Thủ đô Hà Nội hoàn toàn được giải phóng. Cả Hà Nội dồn về cột cờ chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, khi còi Nhà hát Thành phố nổi lên, Đoàn quân nhạc cử Quốc ca, cờ Tổ quốc - lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cờ Tổ quốc lại tung bay hiên ngang trên bầu trời lộng gió của thủ đô Hà Nội. 

      Giờ đây, Cột cờ Hà Nội là một điểm du lịch không thể bỏ qua trong hành trình khám phá lịch sử đất Hà Thành. Theo thống kê của Ban Quản lý Khu di tích Cột cờ - Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, mỗi ngày có 1.000 - 2.000 du khách đến thăm quan cụm di tích (Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam và Cột cờ Hà Nội) này. Điểm di tích này mở cửa tất cả các ngày trong tuần, trừ thứ hai và thứ năm đóng cửa để bảo dưỡng. 

      Hơn 60 năm qua, gắn trên đỉnh Cột cờ Hà Nội là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay trên nền trời của Thủ đô, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do.

      Được khởi công xây dựng từ năm 1805 và hoàn thành vào năm 1812, cột cờ Hà Nội là một trong những công trình kiến trúc làm nên dáng vóc của Hà Nội thời bấy giờ. Đến nay, cột cờ Hà Nội không chỉ là một biểu tượng hùng thiêng của Thủ đô, mà còn là một điểm đến du lịch không thể bỏ qua của Hà Thành. Năm 1989, cột cờ Hà Nội được công nhận là di tích lịch sử và thu hút được nhiều du khách tới thăm quan khi đến với Hà Nội. 

Lan Khanh (tổng hợp) 

Câu 1. Văn bản trên giới thiệu về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử nào?

Câu 2. Nhan đề của văn bản thể hiện sự đánh giá như thế nào về Cột cờ Hà Nội?

Câu 3. Các đề mục nhỏ và nội dung của văn bản đã triển khai vấn đề được đưa ra ở nhan đề như thế nào? 

Câu 4. Theo em, vì sao văn bản Cột cờ Hà Nội - biểu tượng của Thủ đô nghìn năm văn hiến lại được coi là văn bản thông tin tổng hợp?

Câu 5. Phân tích tác dụng của các phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản. 

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ) (Trích chèo Trương Viên) Mụ:                                - Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lắm... Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng. Thị Phương: (Nói sử)     - Mẹ ơi,                            ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

GẶP QUỶ DỮ VÀ THẦN RỪNG (HỔ)

(Trích chèo Trương Viên)

Mụ:                                - Con ơi, bây giờ mẹ đói bụng khát nước, nhọc lắm... Mẹ không thể đi được nữa, con xem có gần nhà ai thì con xin cho mẹ một chút đỡ đói lòng.

Thị Phương: (Nói sử)     - Mẹ ơi,

                                        Con trông bên đông có lửa

                                        Mẹ ngồi đây, con thử vào coi

                                        Có cơm cháo xin người thí bỏ

Quỷ: (Ra)                        - Động ta đây nghiêm chỉnh sắp bày

                                        Ủa kìa người họa phúc tới đây

                                        Sai chúng quỷ ra vây bắt lấy

(Xưng danh)                    Mỗ bạch yêu tinh

                                        Chiếm cao san nhất động

                                        Ngày ngày thường bắt người nuốt sống

                                        Đêm thời đón khách nhai gan

                                        Lộc thiên trù đưa đến tự nhiên

                                        Nay được bữa no say... cha chả!

                                        Này người kia,

                                        Sơn lâm rừng vắng

                                        Đỉnh thượng non cao

                                        Chốn hang sâu sao dám tìm vào

                                        Đi đâu đó, kìa con, nọ mẹ?

Thị Phương:                   - Trình lạy ông thương đoái

                                        Mẹ con tôi đói khát lắm thay

                                        Xẩy nhà lạc bước đến đây

                                        Có cơm cháo xin người thí bỏ

Quỷ:                                - Không khiến kêu van kể lể

                                        Ta quyết nhai tuổi, nuốt sống không tha

Quỷ cái: (Ra)                  - Chàng ăn thịt gì cho thiếp tôi ăn với!

Quỷ:                                 - Ta ăn thịt Thị Phương.

(Lược một đoạn: Quỷ nói chuyện với Quỷ cái. Thương cho Thị Phương, Quỷ cái nhận Thị Phương là em kết nghĩa để nàng không bị ăn thịt. Quỷ cái còn cho Thị Phương năm lạng vàng để nàng đem về nuôi mẹ.)

Thị Phương: (Quay ra) - Mẹ thức hay ngủ mẹ ơi!

Mụ:                                 - Con vào đấy có được tí gì không?

Thị Phương:                 - Thưa mẹ, con vào đó, quỷ đông đòi ăn thịt.

Mụ:                               - Ăn cơm với thịt đông à?

Thị Phương:                 - Quỷ đông đòi ăn thịt con, mẹ ạ. Quỷ cái ra can rồi lại cho vàng.

Mụ: (Cầm vàng)          - Ở hiền rồi lại gặp lành (hát sắp)

                                     Gặp vợ chú quỷ cho thanh tre già

(Nói sử)                         Ới con ơi, 

                                     Mẹ cảm thương thân mẹ

                                     Mẹ lại ngại thân con (Hát văn)

                                     Như dao cắt ruột mẹ ra

                                     Trăm sầu, nghìn thảm chất đà nên con!

(Nói)                              - Con ơi, trời còn sớm hay đã tối mà con cứ dắt mẹ đi mãi thế này?

Thị Phương:                - Trình lạy mẹ,

                                     Vầng ô đã lặn

                                     Vắng vẻ cửa nhà

                                     Mẹ con ta vào gốc cây đa

                                     Nằm nghỉ tạm qua đêm sẽ liệu (ngồi nghỉ).

Thần rừng (Hổ): (Ra)  - Ra oai hùm gầm kêu ba tiếng

                                     Phóng hào quang chuyển động phong lôi

                                     Xa chẳng tỏ, nhảy lại ngó coi

                                     Giống chi chi như thể hình người

                                     Đi đâu đó? - Kìa con, nọ mẹ

                                     Muốn sống thời ai chịu cho ai

                                     Vào nộp mệnh cho ta nhai một.

Thị Phương:                - Trăm lạy ông,

                                     Nhẽ ngày hôm qua một tận không còn

                                     Tôi kêu trời khấn đất đã vang

                                     Qua nạn ấy, nạn này lại phải

                                     Ơn ông vạn bội

                                    Ông ăn thịt một, còn một ông tha

                                     Ông để mẹ già, tôi xin thế mạng.

Mụ: (Nói sử)                 - Trình lạy ông

                                     Con tôi còn trẻ

                                     Công sinh thành, ông để tôi đền

                                     Ông ăn thịt tôi, ông tha cháu nó.

Thị Phương:               - Thưa mẹ, mẹ để con chịu cho.

Mụ:                               - Ới con ơi, con còn trẻ người non dạ, để mẹ chịu cho.

Thần rừng (Hổ):         - Nhẽ ra thời ăn thịt cả không tha

                                     Thấy mẹ con tiết nghĩa thay là

                                     Tha cho đó an toàn tính mệnh.

(Trích Trương Viên, in trong Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, NXB Sân khấu, 1999)

Tóm tắt đoạn trích: Trương Viên quê đất Võ Lăng, nhờ mẹ sang hỏi cưới Thị Phương, người con gái của Tể tướng đã hồi hưu. Thấy chàng học giỏi, cha Thị Phương đồng ý và cho đôi ngọc lưu ly làm của hồi môn. Giữa lúc chàng đang dùi mài kinh sử thì được chiếu đòi đi dẹp giặc, chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ để ra chiến trường. Trong cảnh chạy giặc, Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc suốt mười tám năm. Hai người bị quỷ dữ trong rừng sâu đòi ăn thịt, song may nhờ người vợ quỷ nhận làm chị em xin tha rồi cho vàng. Tiếp đó họ lại bị hổ dữ đòi ăn thịt. Thị Phương tình nguyện dâng mạng mình để cứu mẹ chồng. Hổ tha mạng cho cả hai mẹ con.

Câu 1. Xác định chủ đề của văn bản trên.

Câu 2. Chỉ ra những lối nói, làn điệu xuất hiện trong văn bản. 

Câu 3. Qua hai lần suýt chết, Thị Phương hiện lên là một người phụ nữ như thế nào?

Câu 4. Nhận xét về thái độ, cách ứng xử của người mẹ chồng đối với Thị Phương.

Câu 5. Em rút ra được những bài học nào từ văn bản? Chia sẻ suy nghĩ của em về những bài học đó.

0
26 tháng 11 2024

Đây là bài văn nhé:>>>

Phân tích bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ là một tác phẩm nổi bật, thể hiện sự cảm thông sâu sắc và nỗi tiếc thương của tác giả đối với người vợ hiền, qua đó phản ánh những giá trị nhân văn sâu sắc trong tình vợ chồng, sự hy sinh và tình nghĩa. Bài thơ có nét đặc trưng của thể thơ trữ tình, mang đậm cảm xúc và được viết dưới hình thức một lời thở than đầy xót xa.

1. Bố cục và hình thức:

Bài thơ chia thành hai phần chính:

  • Phần một: Mở đầu bài thơ, tác giả mô tả tình cảm và sự thương xót của mình đối với người vợ hiền. Những lời ca ngợi về phẩm hạnh của người vợ, những công lao của bà đối với gia đình, với chồng con.
  • Phần hai: Tiếp theo, tác giả bày tỏ sự tiếc nuối và đau đớn khi mất đi người vợ yêu thương, đây là phần thể hiện cảm xúc tiếc thương và sự ân hận.
2. Nội dung và ý nghĩa:

Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh người vợ hiền, là một người phụ nữ có đức hạnh, chăm lo cho gia đình, luôn hi sinh và chịu đựng trong âm thầm. Từ cách miêu tả của tác giả, người vợ hiện lên như một biểu tượng của lòng hy sinh vô bờ bến, tận tụy với gia đình, hết lòng yêu thương chồng con.

“Khóc người vợ hiền” là nỗi xót xa của người chồng khi mất đi người vợ, một người phụ nữ hiền lành, đức độ, không một lời kêu ca, oán trách. Đây cũng là hình ảnh đặc trưng của người phụ nữ trong xã hội cũ – những người luôn làm công việc nội trợ, chăm sóc gia đình mà không bao giờ đòi hỏi sự công nhận.

Tú Mỡ không chỉ thương tiếc về sự ra đi của người vợ mà còn bày tỏ nỗi ân hận vì không thể đền đáp lại những công lao của bà khi còn sống. Điều này thể hiện qua những câu thơ đầy tiếc nuối và day dứt. Nỗi đau của tác giả không chỉ là sự mất mát về mặt vật chất mà còn là sự đánh mất đi một tình yêu thương, một nguồn động viên lớn lao trong cuộc sống.

3. Cảm xúc và thái độ của tác giả:

Qua bài thơ, cảm xúc của tác giả rất mạnh mẽ và sâu sắc. Tú Mỡ thể hiện sự đau đớn, tiếc nuối qua những lời thơ thành thật, chân tình. Nhân vật "tôi" trong bài thơ không chỉ khóc thương cho người vợ đã khuất mà còn tự trách bản thân vì đã không làm tròn bổn phận với người vợ hiền, không trân trọng những gì bà đã hy sinh.

Thái độ của tác giả trong bài thơ vừa là sự tôn trọng đối với người vợ, vừa là sự tự nhận thức về những thiếu sót của chính mình. Điều này khiến bài thơ không chỉ là lời khóc than cho một người đã khuất mà còn là bài học về lòng biết ơn và sự trân trọng đối với những người thân yêu xung quanh.

4. Nghệ thuật và cách diễn đạt:

Tú Mỡ sử dụng nhiều biện pháp tu từ để làm nổi bật cảm xúc trong bài thơ. Lối viết mộc mạc, giản dị nhưng lại rất sâu lắng, dễ dàng đi vào lòng người đọc. Hình ảnh người vợ hiền được khắc họa với những từ ngữ hết sức trang trọng và kính cẩn, qua đó thể hiện sự kính trọng của tác giả đối với người vợ.

Bài thơ cũng có sự lặp lại của các câu từ như "khóc người vợ hiền" để nhấn mạnh nỗi đau đớn và sự tiếc thương vô hạn của tác giả. Những câu thơ nhẹ nhàng nhưng chất chứa tình cảm sâu sắc, khiến cho người đọc dễ dàng cảm nhận được sự mất mát và đau đớn trong lòng tác giả.

5. Kết luận:

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ không chỉ thể hiện sự đau thương, tiếc nuối về một người vợ đã khuất mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của tình yêu, sự hy sinh và lòng biết ơn trong mối quan hệ vợ chồng. Bài thơ là sự thể hiện sâu sắc về những cảm xúc chân thành của một người chồng đối với người vợ hiền, qua đó cũng phản ánh những giá trị nhân văn trong xã hội xưa.

Có thể tham khảo haa🐟🐟🐟

26 tháng 11 2024

Đoạn văn nee=)))

Bài thơ "Khóc người vợ hiền" của Tú Mỡ thể hiện nỗi đau xót và sự tiếc nuối của người chồng khi mất đi người vợ hiền. Trong bài thơ, người vợ được miêu tả là một người phụ nữ tận tụy, chăm lo cho gia đình mà không đòi hỏi sự công nhận. Nỗi đau của tác giả không chỉ vì sự ra đi của bà mà còn vì sự ân hận và tự trách, khi không thể đền đáp xứng đáng cho những hy sinh của vợ. Những câu thơ của Tú Mỡ đơn giản nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc, khiến người đọc cảm nhận sâu sắc về tình cảm vợ chồng và giá trị của sự hy sinh trong tình yêu.

Có thể tham khảo thêm cách này aa🐟🐟🐟

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:                     Quê hương  Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: “Ai bảo chăn trâu là khổ?” Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Những ngày trốn học Đuổi bướm cầu ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích...             *** Cách...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

                   Quê hương 

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

            ***

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...

            ***

Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

                                      1960

                              - Giang Nam -

Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên. Chỉ ra dấu hiệu nhận diện thể thơ đó.

Câu 2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là gì?

Câu 3. Trong dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình, "cô bé nhà bên" được gợi tả qua những chi tiết, hình ảnh nào? Em có cảm nhận gì về cô gái đó?

Câu 4. Xác định và phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ có trong khổ thơ cuối của bài thơ. 

Câu 5. Hai dòng thơ cuối: Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi gợi cho em những cảm xúc, suy nghĩ gì?

1
26 tháng 11 2024

Đã ai làm j cậu đâu mà cậu nói vậy ?

26 tháng 11 2024

Trong đời sống con người của chúng ta không phải thứ gì cũng mua được bằng tiền. Chúng ta thường nghĩ rằng có được đồng tiền thì sẽ có được mọi thứ nhưng không , có một số thứ không thể giải quyết được bằng tiền.Những thứ có nhiều tiền cách máy như trăm triệu , trăm tỉ , nghìn tỉ , trăm triệu đô , tỷ đô gọi chung nó là vô giá như sức khoẻ, thời gian ,chính trực , sự thật, đạo đức , giáo dục , chữ tính, tâm thành tĩnh, lương thiện, tốt bụng. Nên hãy bỏ cái quần niệm có tiêng là có tất cả.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  Tiền tài như phấn thổ?  Tiền tài như phấn thổ Nghĩa trọng tợ thiên kim Con le le mấy thuở chết chìm Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi?       Khi còn nhỏ, tôi thường nghe mẹ hát như vậy. Phấn thổ tức là bụi đất. Cứ theo câu "trọng nghĩa khinh tài" mà giải, tiền bạc quả thật là đáng xem thường.     ...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Tiền tài như phấn thổ? 

Tiền tài như phấn thổ
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi?

      Khi còn nhỏ, tôi thường nghe mẹ hát như vậy. Phấn thổ tức là bụi đất. Cứ theo câu "trọng nghĩa khinh tài" mà giải, tiền bạc quả thật là đáng xem thường. 

      Thời gian qua đi, tôi lớn lên và nhìn thấy cuộc đời dường như không giống câu ca dao mẹ hát. Chúng ta vẫn được dạy rằng đồng tiền dễ làm tha hóa con người, rằng hãy tránh xa những người xem đồng tiền là trọng. Nhưng tôi chưa từng thấy ai kiềm tiền bằng trí lực của mình một cách chính đáng mà không xem trọng đồng tiền, dù họ giàu hay nghèo. Người ta nói đồng tiền là nguồn gốc của tội lỗi, nhưng nếu đúng như vậy thì tại sao nhà thờ và nhà chùa vẫn tiếp nhận nó như một thứ lễ vật?

      Chúng ta thường có cái nhìn ngưỡng mộ khi nghe ai đó nói rằng: "Tôi không quan tâm đến tiền bạc", nhưng rồi tôi đọc được câu này của Oscar Wilde: "Khi còn trẻ, tôi thường nghĩ rằng tiền bạc là thứ quan trọng nhất trong đời sống, bây giờ khi tôi già, tôi biết là đúng như vậy".

      Tôi đã sống qua nhiều năm tháng mới nhận ra bản chất của đồng tiền, và tôi ước gì khi tôi mới mười bảy tuổi, có ai đó nói cho tôi biết ý nghĩa đích thực của tiền, thứ mà chúng ta sẽ chạm đến mỗi ngày trong suốt cuộc đời, thậm chí có thể nhiều gấp nhiều lần chạm vào bàn tay người mình thương yêu.

      Tôi thực sự ưa thích cách nhìn về đồng tiền của nhân vật Francisco de Anconia trong tiểu thuyết Atlas Shrugged (Ayn Rand). Nhà tư bản công nghiệp này nói rẳng: "Tiền bạc đòi hỏi anh nhận ra rằng con người phải làm việc để đạt được lợi ích chứ không phải để chịu tổn hại... Những người thật sự ham mê tiền bạc nỗ lực làm việc để kiếm được tiển, và họ biết rằng mình xứng đáng có được nó".

      Phải chăng chúng ta nên trả lại cho tiền khuôn mặt giản dị của nó: Một công cụ dùng để trao đổi các giá trị tương xứng. Đừng khoác cho nó uy lực mà nó không có, cũng đừng gán cho nó tội lỗi mà nó không phạm. Cái làm con người sa ngã không phải là sức mạnh của đồng tiền, mà là những tham vọng không chính đáng của chính bản thân ta: Có được những thứ không phải của mình, sở hữu những thứ vượt quá công sức của mình, danh tiếng mà mình không xứng đáng, vật chất mà mình chưa đủ khả năng mua...

      Mẹ tôi dạy rằng hãy luôn xài ít hơn số tiền mình kiếm được. Trong khi phần đông chúng ta thường xài nhiều hơn số tiền mình làm ra. Một người bạn của tôi tâm sự rằng đôi khi cô thấy mình là kẻ ngốc, vì sung sướng nhét một đống Credit Card(1) trong ví để rồi mua những thứ mình không cần, bằng số tiền mình không có (mà vay qua credit card), cốt chỉ để chứng tỏ với những người không quen. Sau đó è cổ ra cày trả nợ. Có phải là vô nghĩa hay không? Đó cũng là sự khác nhau giữa Credit Card và Debit Card(2). Tôi ghi nhớ kinh nghiệm đau thương của cô nên quyết định làm Debit Card thay vì Credit Card. Có nhiều xài nhiều, có ít xài ít, không có thì đi "window shopping"(3) cho vui vậy thôi. Ngân hàng chắc buồn nhưng tôi thì ngủ yên. 

      Trong bài hát This is the Life của Al Yankovic có một câu rất hay: "So if money can't buy happiness, I guess I'll have to rent it" (Nếu tiền không thể mua được hạnh phúc, chắc tôi phải thuê thôi). Nhưng tôi tin rằng cái gì người ta có bán thì tiền đều có thể mua được. Chắc chắn như vậy. "Tiền không mua được hạnh phúc" chẳng phải vì tiền không có đủ sức mạnh mà vì không ai bán hạnh phúc. Giả sử tôi có đủ tiền để trả cho hạnh phúc của bạn, và nếu bạn thực sự hạnh phúc, bạn có bán nó cho tôi không? Người ta dám bán cả các ngôi sao trên trời nhưng tôi tin không ai bán hạnh phúc nếu như họ có nó.

      Ngoại trừ trong các quảng cáo. Tôi thấy trên Internet người ta bán một căn nhà vách đất ở miền nông thôn
nước Pháp với lời rao: "Chúng tôi bán hạnh phúc, và bạn đan được miễn phí ngôi nhà". Thật tài tình. Đó là lý do khiến chúng ta gần như phát điên lên vì shopping. Áo quần, xe cộ, đồ hi-tech... Nhưng vấn đề nằm ở chỗ đôi khi ta không biết chắc mình đang mua cái gì. Có khi nào bạn trả tiền cho một chiếc mũ bảo hiểm và nghĩ rằng mình đã mua được sự an toàn tuyệt đối không? Chúng ta vẫn nghe nhắc rằng: "Tiền có thể mua được ngôi nhà nhưng không mua được gia đình; mua được thuốc men nhưng không mua được sức khỏe; mua được sách nhưng không mua được tri thức; mua được chức tước nhưng không mua được sự kính trọng...". Đó là những lời thực sự đáng ghi nhớ. 

      Một người quen của tôi có cái bình sứ do tổ tiên để lại, vẫn dùng để cắm hoa trên bàn thờ. Một hôm có người hỏi mua, anh mừng quá bán luôn. Sau anh mới biết cái bình đáng giá gấp 30 lần số tiền anh được trả. Quả đắng ấy anh nuốt mãi không trôi.

      Điều tương tự cũng có thể xảy ra với những giá trị khác. Giả sử người ta có thể mua bán tình yêu, tình bạn, danh dự... Hãy cho tôi biết đổi tình bạn lấy một cái nhà là lợi hay thiệt? Nếu đổi tình yêu lấy danh tiếng? Hay hạnh phúc gia đình lấy địa vị xã hội? Đổi mối tình chân thật lấy một bóng sắc thoáng qua? Đổi sự tôn trọng lấy những lời tung hô? Đổi sự chính trực để lấy vài trăm triệu đồng thì khôn ngoan hay là không? Hạnh phúc của người yêu ta với hạnh phúc của người ta yêu, bên nào nhẹ hơn, bên nào thì nặng? Câu trả lời có thể khác nhau với mỗi người, nhưng có một sự thật là việc đánh giá sai giá trị của "món hàng" không những khiến ta bị thiệt hại mà còn khiến người khác nhìn ta như một kẻ thiếu khôn ngoan. Nhiều bi kịch xảy ra chỉ vì người ta đánh giá sai các giá trị khi đổi chác, những tiếc nuối, xót xa, hối hận, giày vò cũng bắt đầu từ đó. Vậy thì hãy sai bản chấc rằng ta đánh giá đúng giá trị của những gì mình muốn mua, hoặc bán. Để sau một cuộc đối chắc thứ có được vẫn tương xứng với những gì mà ta đã trao đi.

"Tiền tài như phấn thổ"

      Tôi hỏi mẹ sao cứ hát hoài câu đó, vì tôi không thể coi đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình như bụi đất được. Mẹ tôi trả lời rằng câu hát ấy không có ý nói tiền là thứ đáng coi khinh. Nó chỉ nhắc ta nhớ rằng: Đồng tiền có thể bị mất giá, nên những gì tiền mua được cũng có thể bị mất giá. Những tờ tiền có thể tan thành bụi đất, và những thứ mua được bằng tiền cũng vậy.

(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, NXB Thế giới, 2022, tr.148 - 153)

Chú thích: 

(1) Credit Card: Loại thẻ tín dụng dùng trước trả sau.

(2) Debit Card: Loại thẻ tín dụng có bao nhiêu tiền chỉ dùng được bấy nhiêu.

(3) Window shopping: Đi xem hàng chứ không mua. 

Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Câu 2. Xác định những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.

Câu 3. Mục đích của tác giả qua văn bản trên là gì?

Câu 4. Nhận xét về cách lập luận, dẫn dắt của tác giả trong văn bản.

Câu 5. Em có suy nghĩ như thế nào về đoạn văn sau: Phải chăng chúng ta nên trả lại cho tiền khuôn mặt giản dị của nó: Một công cụ dùng để trao đổi các giá trị tương xứng. Đừng khoác cho nó uy lực mà nó không có, cũng đừng gán cho nó tội lỗi mà nó không phạm. Cái làm con người sa ngã không phải là sức mạnh của đồng tiền, mà là những tham vọng không chính đáng của chính bản thân ta: Có được những thứ không phải của mình, sở hữu những thứ vượt quá công sức của mình, danh tiếng mà mình không xứng đáng, vật chất mà mình chưa đủ khả năng mua...?

2

Câu 1: văn bản trên thuộc văn bản nghị luận

Câu 2: những phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn văn là: nghị luận, tự sự, biểu cảm                                                       Câu 3: Mục đích của tác giả qua văn bản trên là:Giải thích bản chất thật sự của đồng tiền, xem nó như một công cụ trao đổi giá trị tương xứng, không nên thần thánh hóa hay xem thường. Phê phán những tham vọng không chính đáng, nhấn mạnh rằng lỗi lầm không nằm ở đồng tiền mà ở cách con người sử dụng nó. Hướng đến lối sống có trách nhiệm, sử dụng đồng tiền hợp lý, biết đánh giá đúng giá trị của những thứ mình có và muốn sở hữu.                                                                  Câu 4:Cách lập luận, dẫn dắt của tác giả trong văn bản:Lập luận chặt chẽ: Tác giả đưa ra vấn đề, phân tích đa chiều, và kết luận thuyết phục. Dẫn chứng đa dạng: Tác giả sử dụng các câu chuyện cá nhân, trích dẫn từ văn học (Oscar Wilde, Francisco de Anconia), và những quan sát thực tế để làm sáng tỏ luận điểm.                  Câu 5:Đoạn văn này thể hiện quan điểm đúng đắn và sâu sắc về bản chất của đồng tiền. Em hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Đồng tiền không có lỗi, cách chúng ta kiếm, sử dụng, và đánh giá nó mới quyết định đồng tiền là tốt hay xấu. Biết hài hòa giữa nhu cầu cá nhân và giá trị đạo đức sẽ giúp cuộc sống cân bằng và ý nghĩa hơn.