viết đoạn văn nghị luận về ý chí nghị lực(12-15 câu)
ko chép mạng càng tốt
thanks mn nhiều
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Quê hương em rất thanh bình và yên tĩnh,có những cánh đồng thẳng cánh cò bay chạy theo những con đường làng quanh co. Những buổi sáng mùa xuân đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú biết bao! Gió xuân nhẹ thổi sóng lúa nhấp nhô từng đợt đuổi nhau ra xa tít. Một đàn cò trắng dang rộng đôi cánh bay qua, nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Đầu làng có con sông nước xanh ngắt, trong lành. Vào những buổi dân làng đi làm cỏ, cánh đồng rộn lên những câu hò, câu hát vang trời. Gần cánh đồng có cây đa to để mọi người ngồi nghỉ sau những buổi lao động mệt nhọc. Mùa lúa chín, trong biển lúa vàng ánh lên màu đen nhánh của những cái liềm của người dân đi gặt. Rải rác khắp cánh đồng là những chiếc nón trắng của người đi gặt nhấp nhô lên xuống.
- Những từ đồng nghĩa là: thanh bình và yên tĩnh; xanh thẳm và xanh ngắt.
- Những từ trái nghĩa là: thẳng >< quanh co; đứng >< ngồi; trắng >< đen; gần >< xa; lên >< xuống.
Quê hương em rất thanh bình và yên tĩnh,có những cánh đồng thẳng cánh cò bay chạy theo những con đường làng quanh co. Những buổi sáng mùa xuân đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú biết bao! Gió xuân nhẹ thổi sóng lúa nhấp nhô từng đợt đuổi nhau ra xa tít. Một đàn cò trắng dang rộng đôi cánh bay qua, nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Đầu làng có con sông nước xanh ngắt, trong lành. Vào những buổi chiều, cánh đồng rộn lên những câu hò, câu hát hay vang trời của những người dân hay đi làm cỏ Gần cánh đồng có cây đa to để mọi người ngồi nghỉ sau những buổi lao động mệt nhọc. Mùa lúa chín, trong biển lúa vàng ánh lên màu đen nhánh của những cái liềm của người dân đi gặt. Rải rác khắp cánh đồng là những chiếc nón trắng của người đi gặt nhấp nhô lên xuống.
- Những từ đồng nghĩa là: thanh bình và yên tĩnh; xanh thẳm và xanh ngắt.
- Những từ trái nghĩa là: thẳng >< quanh co; đứng >< ngồi; trắng >< đen; gần >< xa; lên >< xuống.
- Những từ đồng âm: hay (câu hát hay: chỉ khen ngợi, hay đi làm cỏ: chỉ mức độ thường xuyên)
I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.
Gợi í thoy ha ! viết về qê hương em nông thôn ik ! hãy so sánh vs ở thành thị
Vận dụng đồng dao vào việc làm thơ, tức vận dụng các đặc điểm về thể loại của đồng dao để sáng tác thơ cho/của thiếu nhi. Đặc điểm về thể loại của đồng dao, đó là các đặc điểm về thể thơ, vần nhịp, hình ảnh, kết cấu, cách tạo nghĩa, mô hình,... Vậy vận dụng đồng dao vào việc làm thơ, thì vận dụng đặc điểm nào? Hay vận dụng tất cả?
Chu Thị Hà Thanh trong bài viết “Ảnh hưởng của đồng dao đối với thơ thiếu nhi hiện đại” đăng trên tạp chí Nguồn sáng dân gian, đã quan tâm đến thể thơ. Tác giả viết: “...Chúng tôi đã chứng minh được sức mạnh của đồng dao với hình thức thơ hai, ba, bốn chữ là phù hợp với tư duy, trình độ nhận thức của trẻ, cũng như hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các chức năng đối với trẻ như chức năng diễn xướng, chức năng cung cấp tri thức khoa học cho trẻ. Các nhà thơ hiện đại khi sáng tác thơ cho thiếu nhi cũng đã bắt đúng mạch tâm sinh lí của trẻ mà vận dụng triệt để ưu thế của các thể thơ hai, ba, bốn chữ này” (2). Thanh Tịnh ở bài “Những nét dân gian trong thơ sáng tác cho thiếu nhi” in trong tập Bàn về văn học thiếu nhi, đã quan tâm đến cả thể thơ lẫn vần điệu. Tác giả viết: “Hình thức nên theo thể thơ của dân tộc: từ 2, 3, 4, 5 chữ, rồi 6 - 8. Chứ loại thơ 7 chữ (tứ tuyệt - bát cú) hay 8 chữ xem ra chưa thích hợp lắm. Điều nên tránh là làm thơ một câu nhiều chữ quá hay thơ không vần. Vần điệu là nhạc trong thơ, đối với các em lại rất cần để dễ nhớ, dễ hiểu” (3).
Thử đọc một đoạn trích sau:
...Dọn từ kênh Tráp,
Cho đến Tả Đo.
Hỏi thăm hỏi dò,
Rừng xanh nước biếc.
Cọp gầm voi thét,
Lạ lùng lắm thôi!
Trù ăn không vôi,
Làm sao cho đỏ?
Hàng chợ nỏ có,
Lấy gì bán mua?
Sớm mong chóng trưa,
Trưa mong chóng tối...
Đoạn trích này theo thể thơ bốn tiếng, có vần chân, từng cặp bằng trắc nối tiếp nhau (một kiểu vần cơ bản của đồng dao), tức đáp ứng yêu cầu về thể thơ, về vần được đặt ra, nhưng hầu như nó chẳng có được điều mà các nhà thơ và trẻ em mong đợi (4). Điều muốn làm rõ ở đây, là thể thơ bốn tiếng và lối gieo vần dù có theo kiểu đặc trưng của đồng dao, cũng chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa phải đã đủ.
2. Sự vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ
2.2. Như đã bàn ở trên, vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ không chỉ riêng thể thơ và vần, mà cần đến một số yếu tố nữa. Nói cách khác, phải huy động tất cả các đặc điểm vốn có của thể loại, trong đó, kết cấu và mô hình là hai yếu tố chủ chốt (tự thân hai yếu tố này cũng bao hàm các yếu tố khác như thể thơ, vần nhịp, hình ảnh, cách tạo nghĩa,...).
Trong một nghiên cứu khác, người viết đã chia đồng dao theo hai loại kết cấu: kết cấu đơn giản và kết cấu phức hợp. Ở loại kết cấu phức hợp, trừ kiểu mẩu truyện nhỏ, hai kiểu còn lại là kết cấu chuỗi sự vật, sự việc có liên kết chủ đề hay không và kiểu kết cấu phức hợp đặc biệt, chiếm tổng cộng 65,22% kho tàng đồng dao. Đây là các kiểu loại đồng dao cơ bản. Vấn đề vận dụng đặc điểm về thể loại của đồng dao vào việc làm thơ, qua đó, có thể chỉ xét theo các kiểu loại kết cấu vừa nói, và với một số các sáng tác thơ đã công bố.
2.3. Theo đó, bài thơ đầu tiên cần phải chép ra đây là bài “Kể cho bé nghe” của Trần Đăng Khoa (sáng tác năm 1969, tác giả 11 tuổi):
Hay nói ầm ĩ,
Là con vịt bầu.
Hay hỏi đâu đâu,
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện,
Là con nhện con.
Ăn no quay tròn,
Là cối xay lúa.
Mồm thở ra gió,
Là cái quạt hòm.
Không thèm cỏ non,
Là con trâu sắt.
Rồng phun nước bạc,
Là chiếc máy bơm.
Dùng miệng nấu cơm,
Là cua là cáy... (5)
So sánh bài thơ này với bài đồng dao sau:
Đầu trọc lông lốc,
Là cái bình vôi.
Mồm rộng loe môi,
Là cái thìa ốc.
Đôi chân xám mốc,
Là con diệc trời.
Ngủ đứng ngủ ngồi,
Là con cò trắng.
Hay bay hay tắm,
Là con le le,...
Chúng cùng có các đặc điểm chung:
1) Về thể thơ: cùng theo thể thơ bốn tiếng;
2) Về vần: vần chân, từng cặp bằng trắc nối tiếp nhau một cách đều đặn;
3) Về kết cấu: kết cấu chuỗi sự vật không liên kết chủ đề, cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa;
4) Về mô hình: mô hình P là a A (P: dòng đầu, nêu đặc tính của A; “là a A”: dòng thứ hai, a A: tên vật - a: đơn tiết, A: song tiết). Đây là mô hình mà đồng dao dùng để tạo nên 20 bài dạng vè (“Vè các loại trái”, “Vè các loại chim”, “Vè các loại cá”,...), và một số bài khác; thí dụ: “Dây ở trên mây; Là trái đậu rồng; Có vợ có chồng; Là trái đu đủ; Chặt ra nhiều mủ; Là trái mít ướt;...” (“Vè các loại trái”).
Bốn yếu tố vừa nêu thuộc đặc điểm cơ bản của đồng dao. Cho nên, có thể nói, Trần Đăng Khoa đã vận dụng đồng dao để sáng tác nên bài thơ.
Tiếp theo, là hai bài của M.H. (6):
Bài “Đi theo phương hướng”:
Đi về phía đông,
Có rồng có mây;
Đi về phía tây,
Có bầy chuột nhắt;
Đi về phía bắc,
Có dãy núi lam;
Đi về phía nam,
Có con thỏ trắng.
Bài “Thả đỉa”:
Thả đỉa ba ba:
Làm ngỗng, làm gà,
Làm voi, làm gấu,
Làm anh cá sấu,
Làm chị ễnh ương,
Làm bác cầy hương,
Làm con đỉa đói!
So sánh hai bài này với hai bài đồng dao “Buổi mai ngủ dậy” và “Hu chựng vựng” (trích đoạn, dẫn theo thứ tự), sau:
-...Gặp mụ bán hương,
Hương thơm phưng phức.
Gặp mụ bán mứt,
Mứt đen thùi thui.
Gặp mụ bán chui,
Chui nhọn vẻo vẻo.
Gặp mụ bán kẹo,
Kẹo dẻo như da.
Gặp mụ bán ca,
Ca kêu cút kít... ( )
-...Một con trâu nằm,
Một trăm bánh dày,
Một bầy heo lang,
Một sàng bánh ú,
Một hũ rượu ngon,
Một con cá thiều,
Một niêu cơm nếp,
Một xếp bánh chưng,...
Hai bài thơ vừa dẫn đều theo thể bốn tiếng.
Bài “Đi theo phương hướng” và đoạn trích bài đồng dao “Buổi mai ngủ dậy” có cùng một kiểu gieo vần như vừa trình bày, theo kết cấu chuỗi sự vật có liên kết chủ đề (bài thơ nói về bốn hướng, đoạn trích bài đồng dao nói về các loại hàng hoá), cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa. Bài thơ có mô hình Đi về phía A, có B (A: bốn hướng; B: sự vật, hiện tượng), đoạn trích bài đồng dao có mô hình Gặp mụ bán A, A (thì) x (A: hàng đem bán; x: đặc tính của A). Hai mô hình đều nối vần theo lối: tiếng cuối dòng đầu vần với tiếng cuối dòng sau của mô hình trước, tiếng cuối dòng sau vần với tiếng cuối dòng đầu của mô hình sau, sao cho trong một mô hình đều có vần bằng và vần trắc. Thí dụ:
Gặp mụ bán chui
Chui nhọn vẻo vẻo
GẶP MỤ BÁN KẸO
KẸO DẺO NHƯ DA
Gặp mụ bán ca
Ca kêu cút kít
Bài “Thả đỉa” và đoạn trích bài đồng dao “Hu chựng vựng” không cùng một kiểu gieo vần: bài “Thả đỉa” gieo vần như vừa trình bày, đoạn trích bài đồng dao “Hu chựng vựng” gieo vần theo kiểu, nếu lấy một dòng thơ để xét, thì tiếng thứ hai của dòng này vần với tiếng cuối của dòng trước, tiếng cuối của dòng này vần với tiếng thứ hai của dòng sau. Chúng đều theo kết cấu chuỗi sự vật (bài thơ có liên kết chủ đề, là nói về các con vật, đoạn trích bài đồng dao không có liên kết chủ đề), cứ mỗi dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa. Bài thơ (trừ dòng đầu) có mô hình Làm (a) A (A: tên con vật; a: từ xưng gọi), đoạn trích bài đồng dao có mô hình Một (đơn vị) A (A: thức ăn hoặc con vật cho thịt). Ngoài ra, bài thơ dùng hình ảnh “Thả đỉa ba ba”, một hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của đồng dao.
Qua đó, cũng có thể nói, tác giả của hai bài thơ này đã phần nào vận dụng đặc điểm của đồng dao để làm nên chúng.
2.4. Môt số bài thơ khác có mức độ vận dụng đồng dao hạn chế hơn hai trường hợp vừa trình bày, chẳng hạn:
Bài “Tiếng con chim ri” (trích từ: Trần Gia Linh, Nguyễn Thu Thuỷ, Dung dăng dung dẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1989; tr 104):
Tiếng con chim ri,
Gọi dì gọi cậu;
Tiếng con sáo sậu,
Gọi cậu gọi cô;
Tiếng con cồ cồ,
Gọi cô gọi chú;
Tiếng con tu hú,
Gọi chú gọi dì;
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng!
Bài “Ai dậy sớm” của Võ Quảng:
Ai dậy sớm,
Bước ra nhà;
Cau ra hoa,
Đang chờ đón!
Ai dậy sớm,
Đi ra đồng;
Có vừng đông,
Đang chờ đón!
Ai dậy sớm,
Chạy lên đồi;
Cả đất trời,
Đang chờ đón!
Bài “Tiếng con chim ri”, trừ dòng cuối, những dòng còn lại theo thể thơ bốn tiếng, vần như bài “Kể cho bé nghe” đã nêu, theo kết cấu chuỗi sự vật có liên kết chủ đề, cứ hai dòng thơ thể hiện một đơn vị nghĩa, với mô hình Tiếng con (chim) A, gọi C gọi D (A: tên chim; C, D: từ xưng gọi (8)). Nếu không tính dòng cuối thì đây là một bài thơ vận dụng đặc điểm của đồng dao rất rõ. Nhưng dòng thơ cuối này lại đóng vai trò then chốt đối với bài thơ: a) Về hình thức: nó có tác dụng liên kết, khiến bài thơ trở nên chặt chẽ, logic; b) Về nội dung: nó nêu rõ ý nhắc nhở mọi người dậy sớm để ra đồng làm việc. Do vậy, chỉ có thể nói, tác giả đã vận dụng một mức độ nhất định đặc điểm của đồng dao để sáng tác nên bài thơ.
Bài “Ai dậy sớm” theo thể thơ ba tiếng, gieo vần chân theo từng cặp bằng trắc nối nhau liên tục (như cách gieo vần của bài đồng dao “Tập tầm vông”: Tập tầm vông; Chị lấy chồng; Em ở goá; Chị ăn cá; Em mút xương; Chị nằm giường; Em nằm đất;...”), gồm ba khổ, mỗi khổ (bốn dòng) diễn đạt một ý; với chủ đề: ai dậy sớm và vận động càng nhiều thì phần thưởng dành cho càng lớn (nhằm động viên trẻ ngủ dậy sớm và rèn luyện thân thể, sống gắn bó với tự nhiên). Tuy đồng dao không có bài nào theo kết cấu chuỗi mà có đơn vị nghĩa được diễn đạt quá hai dòng thơ, nhưng các khổ thơ ngắn và tách bạch về nghĩa của bài này vẫn ít nhiều tạo mối liên tưởng đến loại kết cấu ấy. Nói khác đi, bài thơ cũng có đôi chút màu sắc đồng dao.
3.1. Có thể thấy rằng, sự vận dụng đồng dao vào việc làm thơ là khá hạn chế. Như với tập Góc sân và khoảng trời được sáng tác từ tuổi thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, mà trong tổng số 66 bài, chỉ mỗi bài “Kể cho bé nghe” là có vận dụng đặc điểm của đồng dao một cách rõ ràng để sáng tác, như đã trình bày. Ở các tập thơ cho các em độ tuổi mẫu giáo, tiểu học phổ biến khá rộng rãi như “Bài hát trẻ con” (Nam Hương, Tạp chí Tứ dân văn uyển, Hà Nội, 1936; số 25, tr 1-28), Nhi đồng lạc viên (Nguyễn Văn Ngọc, in lần 2, Vĩnh Hưng Long thư quán xb, Hà Nội, 1936), Mấy vần tươi sáng(Trần Trung Phương, Hiệu sách Bình Minh xb, Hà Nội, 1952), Thơ ca mẫu giáo(Nhược Thuỷ và tgk, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1961), Bàn tay của bé (Chu Huy tuyển chọn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985), Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ 3-4 tuổi (Nhiều tác giả, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển chương trình giáo dục mầm non xb, Hà Nội, 2004),..., số các bài thơ vận dụng đồng dao chỉ ở mức đếm được trên đầu ngón tay.
Tất nhiên, chỉ tính là có vận dụng đồng dao khi bài thơ có dùng kết cấu và mô hình kiểu đồng dao như đã nói. Bởi chỉ như vậy bài thơ mới it nhiều mang màu sắc, dáng dấp đồng dao, còn nếu chỉ dùng mỗi thể thơ ba, bốn tiếng và gieo vần như đồng dao thì chưa đủ để tạo nên dáng dấp ấy. Ở trên, có dẫn một đoạn vè để xác nhận và cũng nhằm nhấn mạnh điều này. Thật ra, bất kì một bài thơ thuộc thể ba, bốn tiếng và có vần nhịp như đồng dao nào cũng có thể giúp làm rõ vấn đề; chẳng hạn, với bài “Chiếc cầu mới” của Thái Hoàng Linh (9) dưới:
Trên dòng sông trắng,
Cầu mới dựng lên.
Nhân dân đi bên,
Tàu xe chạy giữa.
Tu tu xe lửa,
Xình xịch qua cầu;
Khách ngồi trên tàu,
Đoàn người đi bộ,
Cùng cười hớn hở,
Nhìn chiếc cầu dài,
Tấm tắc khen tài,
Công nhân xây dựng.
Bài thơ theo thể bốn tiếng, có kiểu gieo vần như đã nêu, tức có thể thơ và kiểu vần mà đồng dao thường dùng, nhưng so với các bài đồng dao đã dẫn, nó không cùng dáng vẻ. Bởi bài thơ dùng lối tự sự mạch lạc, thái độ rõ ràng (ca ngợi sự tiến bộ xã hội, biểu hiện qua người công nhân làm cầu), còn đồng dao thì khó có được lối kể chuyện rành rọt như vậy, và hầu như chỉ nhìn nhận sự vật, sự việc như chúng vốn có mà không khen chê.
3.2. Sự vô tư, trong sáng, một phẩm chất của tuổi thơ, là điều mà người lớn khó thể có được, cho dẫu là nhà thơ. Nhưng sự vô tư, trong sáng ấy được thể hiện qua đồng dao, một đối tượng có thể phân tích để nắm bắt các đặc điểm, yếu tính của nó. Do đó, điều quan trọng là nhà nghiên cứu phải tìm cho ra các đặc điểm ấy, để nhà thơ vận dụng chúng vào việc sáng tác những bài thơ phù hợp với trẻ. Còn mỗi khi đã có trong tay cái công cụ ấy rồi (tức các đặc điểm của thể loại đồng dao vừa nói), thì nhà thơ sẽ dễ thành công hơn, đáp ứng được điều mong mỏi là có được thơ hay cho thiếu nhi hiện nay.
Bước đầu, người viết cố gắng cung cấp công cụ đã nêu. Nhưng do không thể vượt quá yêu cầu đặt ra của bài viết, nên vấn đề sẽ được trình bày đầy đủ hơn ở một công trình khác.
- Hàm tính tổng:
Cú pháp = SUM(a, b, c)
- Hàm tính TBC:
Cú pháp: AVERAGE(a, b, c)
- Hàm tính GTLN:
Cú pháp: MAX(a, b, c)
- Hàm tính GTNN:
Cú pháp: MIN(a, b, c)
tổng : =sum( )
tbt : =average( )
nhỏ nhất : =min( )
lớn nhất : = mã ( )
Điệp ngữ có các dạng: điệp cách quãng, điệp nối tiếp, điệp vòng.
- Khổ thơ thứ nhất hình thức điệp cách quãng các từ “nghe”
a, Điệp nối tiếp cụm từ “thương em”
b, Điệp vòng (từ “ngàn dâu”, “thấy”)
+,Đều là thâm mềm,ko phân đốt
+,Có vỏ đá vôi bên ngoài cơ thể
+, Có hệ tiêu hóa phân hóa
+,Có khoang áo phát triển
a)Các từ láy là:mãi mãi,nhẹ nhàng,rạo rực,xao xuyến,bâng khuâng,nôn nao,hồi hộp,hốt hoảng.
b)học sinh,liên đội,chi đội,....
a)Các từ láy là:mãi mãi,nhẹ nhàng,rạo rực,xao xuyến,bâng khuâng,nôn nao,hồi hộp,hốt hoảng.
b)học sinh,liên đội,chi đội,....
Hcoj tốt
Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao khó khăn mà ta cần phải vượt qua. Những khó khăn đó như một định luật tự nhiên để ta có thể phát triển và thăng tiến. Nhưng để có thể vượt qua được những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta phải có sự kiên trì, bền bỉ. Và Nguyễn Bá Học đã có câu châm ngôn: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." Vậy bây giờ chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu câu nói này của ông!
Đường đi ở đây có nghĩa là con đường mà chúng ta phải đi, phải vượt qua để tiến về phía trước. Trên đường đi của chúng ta chắc chắn sẽ phải có nhiều những con sông, những ngọn núi làm cho chúng ta khó có thể vượt qua. Nhưng con đường đó dù có bao nhiêu sông, bao nhiêu núi, nếu chúng ta không; ngại ngùng, lo âu, sợ hãi hay chán nản, chùn bước, buông xuôi thì ta vẫn có thể vượt qua được nó một cách dễ dàng. Nhìn chung, qua câu nói này, Nguyễn Bá Học muốn ngụ ý cho chúng ta rằng con đường đi cho dù khó mấy thì ta cũng vẫn có thể vượt qua, điều quan trọng là tâm ý của ta có kiên định để vượt qua những khó khăn mà con đường đó mang tới cho ta hay không? Nói sâu hơn thì con đường mà Nguyễn Bá Học muốn nói tới đó là đường đời, chúng ta phải dùng chính sức của mình để vượt qua nó, nếu chỉ biết dựa dẫm, nhờ vả mà không nỗ lực thì sẽ không tài nào vượt qua được.
Khó khăn như là một câu thách đố đòi hỏi chúng ta phải biết vượt qua chính mình bằng cách chỉnh đốn lại nội tâm và làm chủ bản thân. Chỉ có lòng kiên định và ý chí kiên trì bền bỉ mới có thể giúp ta vượt qua được những trở ngại của cuộc sống. Đó là một nền tảng mà bất cứ người nào cũng cần nên có. Chẳng hạn như chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, suốt một đời lo cho nước, cho dân, đi nhiều noi và làm đủ mọi việc. Con đường Người phải đi thật gian lao, vất vả nhưng với ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường. Người đã mang đến cho dân tộc ta ánh sáng của độc lập tự do, một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều người không biết dùng sức mình để vượt qua khó khăn, họ chỉ biết dựa dẫm vào người khác. Những người đó là những người không biết vượt qua nhiệm vụ mà cuộc sống đã thử thách chúng ta, thật đáng bị xã hội phê phán. Không nói đâu xa, chỉ cần nói trong học sinh chúng ta. Khi làm bài kiểm tra, những bạn biết tự dùng sức mình để làm bài vẫn hơn những bạn không học mà quay cóp hay mở tập. Dù có thể điểm số khi phát ra của những bạn đó không cao bằng những bạn quay cóp nhưng những bạn đó có thể tự hào vì mình đã không làm những chuyện làm cho lương tâm mình ray rứt. Vì vậy, cho dù khó khăn có thế nào đi nữa thi chúng ta đừng nên nản lòng, hãy vững tâm bước tiếp, có như vậy ta mới có được những bài học sáng suốt để có thể vượt qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta không thể biết con đường này, hay nói cách khác là đường đời sẽ dẫn ta đến đâu nếu ta chưa thực sự đi qua nó. Có rất nhiều khả năng mà ta Không thể kiểm soát được. Điều duy nhất có thể làm là ta phải biết làm chủ mình, đưa ra quyết định thật đúng đắn và quyết tâm kiên trì theo đuổi đến cùng. Như vậy không sớm thì muộn ta cũng có thể vượt qua được nó. Cũng như chủ tịch Hổ Chí Minh đã dạy: "Không có việc gì khó - Chi sợ lòng không bền - Đào núi và lấp biển - Quyết chí ắt làm nên"
Chỉ cần có ý chí là chúng ta có thể vượt qua được mọi trở ngại cho dù trở ngại đó có lớn đến mức nào. Khó khăn càng lớn khi ước vọng càng cao, khó khăn càng không thể vượt qua khi khả năng làm chủ bản thân càng thiếu. Vậy tại sao chúng ta không thử quyết tâm, kiên trì theo đuổi một điều gì đó đến cùng để rồi ta có thể nhận được một thành quả lớn như ta đã mơ ước?
Cuộc sống luôn là một bức tranh muôn màu muôn vẻ, còn biết bao nhiêu điều đang chờ đợi ta phía trước. Vì thế hãy dám nghĩ, dám quyết định và lựa chọn con đường đi cho chính bản thân mình, đừng nên chần chừ và do dự. Kiến thức, niềm tin, lòng nhiệt huyết và sự quyết tâm kiên trì vượt khó sẽ là những người bạn đồng hành không thể thiếu của mỗi người chúng ta trên con đường đời ấy.
Nghị lực là gì? Đó là những cố gắng quyết tâm vượt qua thử thách cho dù những thử thách đó có khó khăn, gian khổ đến đâu. Cuộc sống là như vậy,không có con đường nào được trải thảm đỏ để dẫn bạn tới thành công. Con đường nào cũng có những tảng đá dù lớn hay nhỏ cản trở những bước chân của chúng ta, con đường đi ấy chính là con đường đời của mỗi người còn tảng đá chính là những thử thách mà ta gặp phải trên con đường ấy, tảng đá nhỏ tượng trưng cho những sóng gió nhỏ mà ta có thể dễ dàng vượt qua, còn những tảng đá lớn là những thử thách khó mà đòi hỏi ta phải cố gắng, kiên trì mới có thể vượt qua được. Những lúc gặp khó khăn ấy, bạn sẽ làm gì? Kiên quyết cố gắng hay đi giật lùi những bước chân để về vạch xuất phát. Một số người họ sẽ dồn hết ý chí, nghị lực để vượt qua khó khăn ấy vì họ cho rằng sự thành công nào cũng phải trả giá bằng sức lực và ý chí. Như chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã nói:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên