
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Bố cục chia làm 3 phần:
+ Phần 1 (từ đầu … chủ đề “một ngày không sử dụng bao bì ni lông”) Giới thiệu về Ngày Trái Đất
+ Phần 2 (tiếp … nghiêm trọng đối với môi trường): Tác hại và giải pháp hạn chế, khắc phục sử dụng bao bì ni lông)
+ Phần 3 ( còn lại): Lời kêu gọi hành động bảo vệ trái đất

Bạn tham khảo nhé . Câu2
Nam Cao là nhà văn có biệt tài viết về đề tài nông dân, nông thôn Việt Nam. Chính sự am hiểu, gắn bó với cuộc sống của con người, những người nông dân mà mỗi hình ảnh Nam Cao khắc họ trong tác phẩm của mình đều rất chân thực, sống động, mang lại cho người đọc những cảm xúc thực nhất, rõ nét nhất. Viết về bi kịch đói nghèo của người nông dân, truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao đã thể hiện được một cách chân thực và cảm động về số phận của người nông dân cùng khổ trong xã hội cũ. Cụ thể ở đây là cuộc sống và số phận của nhân vật Lão Hạc.
Truyện ngắn “Lão Hạc” là một thiên truyện vô cùng xúc động về Lão Hạc, một người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám. Truyện ngắn xoay quanh câu chuyện Lão Hạc bán con chó Vàng và bao nhiêu giằng xé, đau khổ sau đó của Lão. Đọc truyện ngắn ta có thể thấy trước khi bán cậu Vàng, Lão Hạc cũng đã có một hoàn cảnh vô cùng đáng thương, bi đát: vợ mất sớm, con trai yêu một cô gái trong làng nhưng vì không có tiền cưới vợ, cô gái thì lại đi lấy con trai của ông phó lí trong làng nên cũng phẫn chí mà bỏ đi tha phương, làm công nhân ở một đồn điền cao su. Lão Hạc chỉ còn lại cậu Vàng – con chó mà con trai Lão để lại. Như vậy, trước hết ta thấy con chó Vàng không phả là một vật nuôi mà với Lão Hạc nó là một người bạn thân thiết. Hiểu như vậy ta sẽ có căn cứ để hiểu về diễn biến tâm lí đầy phức tạp của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.
Vì đột nhiên đổ bệnh nặng, Lão Hạc không thể đi làm, nhà lại hết tiền mà cậu Vàng lại ăn rất khỏe. Vì không muốn tiêu tiền mà mình để dành cho con trai, Lão Hạc đã phải suy nghĩ rất nhiều khi quyết định bán cậu Vàng, lão đã nhiều lần sang nhà ông Giáo để hỏi ý kiến về việc bán chó. Điều đó chứng tỏ đây là một quyết định vô cùng khó khăn với ông. Bởi cậu vàng là người bạn thân thiết, cũng là kỉ vật của anh con trai để lại trước lúc đi xa. Do đó, bao nhiêu tình thương dành cho, có bao nhiêu nỗi niềm ông đều dành hết cho cậu Vàng. Ông coi nó như người bạn, như người con, người cháu của mình.
1. Kể theo ngôi thứ nhất, nhìn từ tác giả, tức là ông giáo. Như thế sẽ cho câu chuyện gần gũi hơn, chân thực hơn và người dọc có thể nhập cuộc, chia sẻ cảm giác cùng các nhân vật người đọc có cảm giác như mình đang được nghe ông giáo ngồi ngay bên cạnh kể lại câu chuyện cũng như hiểu rõ được tất cả cảm giác của ông giáo. câu chuyện dẫn dắt tự nhiên, linh hoạt, ko cần tuân theo trật tự thời gian, ko gian, có thể kết hợp tự sự và trữ tình, phản ánh và bộc lộ cảm xúc...
câu 2 có ng làm rồi nhé, mình có thể làm ngắn hơn nưng lười :)
3. Lúc đầu thì băn khoăn, day dứt trong việc bán cậu Vàng
Sau đó thì buồn bã, nức nở khi bán cậu Vàng đi
Cuối cùng tự tử = bả chó để giữ lại toàn bộ số tiền cho con trai
4. chắc để mình làm đã, chứ giờ chưa có chữ nào tron đầu ca :)

II. Thân bài
1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
- Thủ pháp đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ
→ Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữu khi yêu
- Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường
→ Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa
- Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa ... Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ
2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
- Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu
- Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu
- Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu
+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu... trên mặt nước...”, “ngày đêm không ngủ được”
→ Nỗi nhớ da diết, sâu đậm
+ Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”
→ Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả
+ Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình
- Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
+ “Em”: phương Bắc phương Nam – “Hướng về anh một phương”
→ Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối
+ “sóng” : ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ”
→ quy luật tất yếu.
+ Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc
⇒ Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu
4. Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
- Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế ... Mây vẫn bay về xa”
- “Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
- Khát khao của nguời phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với mooitj tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian

tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa hai vẻ đẹp đối lập mà thống nhất của con người và mảnh đất Việt Nam qua hai khổ thơ trong bài "Quê hương". Khổ đầu tiên mở ra không gian văn hóa đậm chất thơ mộng, nơi con người gắn bó với âm nhạc và thi ca từ khi còn trong bụng mẹ.Hình ảnh "tiếng hát, "làm thơ" không chỉ thể hiện sự lãng mạn, hồn hậu mà còn là nét tính cách đặc trưng của người dân quê. Cánh cò đưa võng, vốn là hình ảnh bình dị, nay trở thành biểu tượng nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ trong một không gian yên bình. tuy nhiên, khi quê hương lâm nguy, vẻ đẹp hiền hòa bỗng chốc hóa thành sức mạnh quật cường. Khổ thơ thứ hai chuyển sang giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng. Tre làng, vốn thân thuộc, nay "xả thân làm ngọn mác, mũi chông", trở thành vũ khí chiến đấu. Con người, từ "trai gái thôn Đông, xóm Bắc" hiền lành, chất phác, đã "thoắt vươn vai thành những anh hùng".Hai khổ thơ này bổ sung cho nhau, tạo nên cái nhìn toàn diện về quê hương: vừa có vẻ đẹp trữ tình, thanh bình trong cuộc sống thường nhật, vừa chứa đựng sức mạnh tiềm tàng,tinh thần kiên cường khi đối diện với kẻ thù
Hai khổ thơ trong bài "Quê hương" của Nguyễn Bính thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất quê hương, đồng thời ca ngợi những phẩm chất đặc biệt của con người nơi đây.
Khổ thơ đầu tiên gợi ra hình ảnh một quê hương gắn liền với những âm thanh của làn điệu dân ca, là nơi mà trong "bụng mẹ" đã biết mê tiếng hát. Đây là một hình ảnh đầy chất thơ, cho thấy sự hòa quyện giữa con người và quê hương, nơi mà truyền thống văn hóa, đặc biệt là văn học, đã ăn sâu vào tiềm thức từ những ngày đầu đời. Tiếng hát quê hương không chỉ là biểu tượng của sự ấm áp, yêu thương mà còn phản ánh bản sắc dân tộc trong mỗi con người nơi đây.
Khổ thơ thứ hai chuyển hướng, thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh bảo vệ quê hương. Những "tre làng" trở thành "ngọn mác, mũi chông", tượng trưng cho sự kiên cường của con người khi đối mặt với kẻ thù. Các trai gái thôn Đông, xóm Bắc “thoắt vươn vai thành anh hùng", khẳng định tinh thần bất khuất và sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong những giờ phút khó khăn.
Như vậy, qua hai khổ thơ, tác giả Nguyễn Bính đã khắc họa vẻ đẹp của quê hương trong cả khía cạnh văn hóa lẫn tinh thần chiến đấu kiên cường.

Cụ Bơ-men là một nghệ sĩ vĩ đại"
- Là một họa sĩ nghèo, tuổi đã già, sống một mình ở tầng dưới chung căn hộ với hai cô họa sĩ trẻ: Xiu và Giôn – xi.
- Cả một đời làm nghệ thuật, cụ khát khao hoàn thành một kiệt tác.
- Nhưng cái nghèo cứ đến, thời gian thì nhanh chóng trôi qua, hoài bão của cụ vẫn chưa thực hiện được.
- Vốn đầy lòng trắc ẩn, thương người nên cụ Bơ – men vô cùng lo lắng khi biết tình trạng của Giôn – xi.
- Cụ lo sợ cái suy nghĩ vẩn vơ, tuyệt vọng của cô họa sĩ trẻ sẽ khiến cô phải lìa xa cõi đời này khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống.
- Nhìn từng chiếc lá cứ rụng dần theo mùa đông và chỉ còn một chiếc trơ trọi trên cành, cụ lặng lẽ âm thầm thực hiện một công việc.
- Tối hôm ấy, thời tiết thật khắc nghiệt, gió mưa dữ dội, bằng tình thương, bằng tài năng, cụ đã vượt qua tất cả để hoàn thành tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”.
- Bức tranh ấy đã giúp cho Giôn – xi hồi sinh trở lại, giúp cô thoát khỏi suy nghĩ muốn tìm cái chết và cô đã lạc quan yêu đời, khao khát sống.
- Đắng lòng người đọc khi biết rằng sau đêm ấy cụ Bơ – men đã mắc bệnh viêm phổi rất nặng và qua đời sau đó vài ngày.
- Nhân vật cụ Bơ – men thật đẹp, thật cao cả, là một nghệ sĩ chân chính, tài năng. “Kiệt tác” của cụ giúp cho người đọc cảm thấy mùa đông ấm áp tình người – một thông điệp tuyệt vời mà nhà văn muốn gởi đến chúng ta: Hãy sống và yêu thương

Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề cần phân tích.
Thân bài
- Phân tích nội dung
- Tóm tắt nội dung tác phẩm.
- Phân tích các nhân vật chính, phụ.
- Phân tích các tình huống, chi tiết tiêu biểu.
- Phân tích chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.
- Phân tích nghệ thuật
- Ngôn ngữ, giọng điệu.
- Kỹ thuật miêu tả, kể chuyện.
- Các biện pháp nghệ thuật.
Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề cần phân tích.
- Đánh giá chung về tác phẩm.

Em tham khảo:
Trong tác phẩm nhân vật chính Lão Hạc là một người nông dân lương thiện với tấm lòng yêu thương con vô hạn. Lão Hạc sống cô độc trong ngôi nhà, vợ ông mất sớm còn người con trai vì không có tiền cưới vợ nên anh con trai quẫn chí bỏ nhà để đi đồn điền cao su. Cuộc sống của lão vốn không bình yên mà lại gặp nạn đói, mất mùa, không có thóc gạo. Nhưng không vì vậy mà lão mất đi bản tính lương thiện của mình. Và có một sự việc đã khiến cho cuộc sống của lão thay đổi đó là vì đói kém mà lão phải bán đi cậu Vàng-người bạn của lão và nó cũng là kỉ vật cuối cùng mà con trai lão để lại. Khi bán đi cậu Vàng về lão đến nhà ông giáo kể câu chuyện đó, dáng vẻ buồn đau, lão không nhịn được mà khóc hu hu. Cuồi cùng để giữ lại chút lương thiện của bản thân lão đã chọn cái chết, một cái chết đau đớn, rũ rượi. Lão Hạc là một người rất đáng quý với những phẩm chất quý.

- Biện pháp nhân hoá; Quyên đã gọi hè
-> âm thanh tiếng chim cuốc khắc khoải gọi hè báo hiệu bước đi của thời gian
- Biện pháp ẩn dụ: Lửa lưụ
-> hoa lựu nở trong như những đốm lửa .
- Chơi chữ: điệp âm phụ âm “l” (lửa lựu lập loè) kết hợp với cách sử dụng từ láy tượng hình “lập loè”
-> gợi tả chính xác màu sắc, trạng thái lấp ló,lúc ẩn lúc hiện của bông hoa lựu đỏ trong tán lá dưới ánh trăng.
-> Sự quan sát tinh tế, khả năng sử dụng ngôn ngữ và tài năng tả cảnh bậc thầy của ngòi bút Nguyễn Du đã lột tả được cái hồn của cảnh.
-> Tất cả làm hiện lên một bức tranh mùa hè đẹp, sinh động nơi làng quê yên ả, thanh bình.

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm của và bị bạn bè chế giễu.
Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn. Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi.
Em đuổi bắt nhái và mỉm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở. Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, nghẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.
Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.
Về nhân philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.
Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.
Guy de Maupassant là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Pháp thế kỷ XIX. Ông nổi tiếng với lối kể chuyện tự nhiên, súc tích nhưng sâu sắc, khắc họa rõ nét những số phận nhỏ bé trong xã hội. Tác phẩm Bố của Xi-mông là một câu chuyện cảm động về một cậu bé bất hạnh và khát khao có một người cha, qua đó thể hiện lòng nhân ái và giá trị của tình yêu thương.
Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Xi-mông, một cậu bé tội nghiệp vì sinh ra mà không có cha. Trong xã hội thời bấy giờ, điều này là một nỗi bất hạnh lớn, khiến cậu trở thành đối tượng trêu chọc của đám trẻ cùng trang lứa. Những lời chế giễu cay nghiệt đã đẩy Xi-mông vào một tâm trạng tuyệt vọng đến mức cậu muốn tự tử. Cảnh Xi-mông ngồi khóc bên bờ sông, đau khổ và bơ vơ, là một trong những hình ảnh giàu tính nhân văn nhất của tác phẩm. Nó không chỉ thể hiện nỗi đau của một đứa trẻ mà còn lên án sự khắc nghiệt của xã hội đối với những người yếu thế.
Sự xuất hiện của bác thợ rèn Phi-líp đã làm thay đổi cuộc đời Xi-mông. Trước những giọt nước mắt của cậu bé, Phi-líp không thể làm ngơ. Ông đã an ủi, trò chuyện và đưa Xi-mông về nhà. Điều đáng quý nhất là khi Xi-mông ngây thơ hỏi Phi-líp có muốn làm cha của mình không, ông không từ chối mà còn đồng ý với sự chân thành. Dù không phải cha ruột của Xi-mông, nhưng chính sự quan tâm, dịu dàng của ông đã sưởi ấm tâm hồn non nớt của cậu bé.
Chi tiết Xi-mông vui sướng khoe với lũ bạn rằng mình đã có bố là một hình ảnh đầy xúc động. Nó thể hiện niềm hạnh phúc giản dị nhưng vô cùng to lớn của một đứa trẻ từng bị tổn thương. Tình thương đã chữa lành trái tim cậu bé, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp của lòng nhân ái trong con người Phi-líp. Đoạn kết mở ra một hy vọng mới cho Xi-mông, khi mẹ cậu và Phi-líp có thể trở thành một gia đình thực sự.
Qua tác phẩm, Maupassant không chỉ kể một câu chuyện cảm động mà còn gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và giá trị của gia đình. Ông cho thấy rằng cha không chỉ là người sinh ra đứa trẻ mà còn là người yêu thương, bảo vệ và mang đến hạnh phúc cho con mình. Bố của Xi-mông là một truyện ngắn giàu giá trị nhân văn, khiến người đọc xúc động và trân trọng hơn tình cảm gia đình.