Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Người ta dùng phương pháp chiết để tách dầu mỏ khỏi hỗn hợp dầu mỏ và nước biển vì dầu mỏ nhẹ hơn nước biển nên sẽ nổi lên trên bề mặt nước biển, nên có thể chiết ra được.

Tham khảo
Dầu thô ở thể lỏng được khai thác từ các mỏ dầu ngoài biển khơi. Để vận chuyển dầu lỏng vào đất liền, ta: Cho dầu vào thùng chứa và vận chuyển vào đất liền hoặc bơm dầu chảy qua những đường ống dẫn dầu về đất liền.

Dầu thô ở thể lỏng được khai thác từ mỏ dầu ngoài biển khơi,vận chuyển vào bằng cách :Cho dầu vào thùng chứa và vận chuyển vào đất liền.
+Bơm dầu chảy qua những đường ống dẫn dầu về đất liền.

Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu mỏ tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, dầu diesel và xăng nhiên liệu[1]. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa. Nó thường được tinh chế thành nhiều loại nhiên liệu. Các thành phần dầu mỏ được tách ra bằng cách sử dụng một kỹ thuật được gọi là chưng cất phân đoạn tức là tách hỗn hợp chất lỏng thành các chất khác nhau ở điểm sôi tương ứng của chất đó bằng phương pháp chưng cất, thường sử dụng cột phân đoạn.
Dầu mỏ có nguồn gốc là một loại nhiên liệu hóa thạch có thể tìm thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nguồn gốc hình thành dầu mỏ là từ xác của động và thực vật nhỏ đã chết dưới các đáy biển cổ đại cách đây 10 đến 600 triệu năm.
Khi các sinh vật chết đi, xác của chúng chìm dưới bùn cát đáy biển và bị phân huỷ trong các tầng trầm tích này qua hàng nghìn năm. Trong điều kiện hầu như thiếu oxy (môi trường yếm khí), các sinh vật không phân huỷ thành CO2 như ở trên mặt đất, mà chúng bị phân rã thành những hợp chất giàu carbon – nguồn gốc hình thành nên các lớp vật chất hữu cơ.
Khi trộn lẫn với trầm tích biển, những vật liệu hữu cơ này là nguồn gốc hình thành nên lớp đá phiến sét hạt mịn, hay còn gọi đá gốc. Trong quá trình đó, các lớp trầm tích mới cũng không ngừng lắng đọng bên trong, tạo nên một sức ép lớn, làm nóng đá gốc. Sau cùng, nhiệt độ và áp suất cao đã hoá lỏng các vật liệu hữu cơ trở thành dầu thô và khí tự nhiên.
Dầu chảy khỏi lớp đá gốc và tích lũy trong một lớp đá vôi hoặc đá cát dày hơn và có nhiều lỗ rỗng hơn, được gọi là lớp đá chứa. Hoạt động chuyển dịch của các mảng thạch quyển trong lòng trái đất (như uốn nếp, đứt gãy hay vặn xoắn) đã “khoá” dầu mỏ và khí thiên nhiên lại trong các lớp đá chứa, kẹp chúng giữa những lớp đá không thấm nước xung quanh như granite hay cẩm thạch, tạo thành các mỏ dầu.
Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu mỏ tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, dầu diesel và xăng nhiên liệu[1]. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa. Nó thường được tinh chế thành nhiều loại nhiên liệu. Các thành phần dầu mỏ được tách ra bằng cách sử dụng một kỹ thuật được gọi là chưng cất phân đoạn tức là tách hỗn hợp chất lỏng thành các chất khác nhau ở điểm sôi tương ứng của chất đó bằng phương pháp chưng cất, thường sử dụng cột phân đoạn.
Dầu mỏ có nguồn gốc là một loại nhiên liệu hóa thạch có thể tìm thấy ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nguồn gốc hình thành dầu mỏ là từ xác của động và thực vật nhỏ đã chết dưới các đáy biển cổ đại cách đây 10 đến 600 triệu năm.
Khi các sinh vật chết đi, xác của chúng chìm dưới bùn cát đáy biển và bị phân huỷ trong các tầng trầm tích này qua hàng nghìn năm. Trong điều kiện hầu như thiếu oxy (môi trường yếm khí), các sinh vật không phân huỷ thành CO2 như ở trên mặt đất, mà chúng bị phân rã thành những hợp chất giàu carbon – nguồn gốc hình thành nên các lớp vật chất hữu cơ.
Khi trộn lẫn với trầm tích biển, những vật liệu hữu cơ này là nguồn gốc hình thành nên lớp đá phiến sét hạt mịn, hay còn gọi đá gốc. Trong quá trình đó, các lớp trầm tích mới cũng không ngừng lắng đọng bên trong, tạo nên một sức ép lớn, làm nóng đá gốc. Sau cùng, nhiệt độ và áp suất cao đã hoá lỏng các vật liệu hữu cơ trở thành dầu thô và khí tự nhiên.
Dầu chảy khỏi lớp đá gốc và tích lũy trong một lớp đá vôi hoặc đá cát dày hơn và có nhiều lỗ rỗng hơn, được gọi là lớp đá chứa. Hoạt động chuyển dịch của các mảng thạch quyển trong lòng trái đất (như uốn nếp, đứt gãy hay vặn xoắn) đã “khoá” dầu mỏ và khí thiên nhiên lại trong các lớp đá chứa, kẹp chúng giữa những lớp đá không thấm nước xung quanh như granite hay cẩm thạch, tạo thành các mỏ dầu.

Hỗn hợp dầu hỏa và nước là hỗn hợp ko đồng nhất nên nếu muốn tách dầu hỏa và nước thì ta dùng phương pháp chiết
Các bước thực hiện:
Bước 1: chuẩn bị dụng cụ(giá thí nghiệm, phễu chiết, khóa, bình đựng tam giác)
Bước 2: sắp xếp, lắp đặt các dụng cụ,cho hỗn hợp vào phễu chiết
Bước 3: Mở khóa cho nước chảy từ từ xuống bình đựng tam giác
Bước 4: Quan sát cho đến khi dầu hỏa chạm khóa thì khóa lại

- Đặt phễu chiết lên giá thí nghiệm và khóa phễu
- Lắc đều hỗn hợp dầu ăn và nước rồi rót hỗn hợp vào phễu chiết
- Đậy nắp phễu chiết. Để yên phễu chiết sau một thời gian cho dầu ăn và nước trong hỗn hợp tách thành hai lớp .
- Mở lắp phễu chiết .
- Mở khóa phễu từ từ để thu lớp nước ở dưới vào bình tam giác .
Có thể lặp lại quá trình trên vài lần để tách hoàn toàn nước và dầu ăn.
Khi khai thác dầu mỏ, để tách dầu ra khỏi hỗn hợp dầu mỏ và nước biển, người ta thường dùng các phương pháp như: tách dầu bằng bể lắng (dầu nhẹ hơn nước nên nổi lên và được thu gom), thiết bị tách dầu - nước (Separator) để tách dầu dựa vào sự chênh lệch khối lượng riêng, và màng lọc dầu (Oil Skimmer) để hút dầu nổi trên bề mặt nước biển.
Khi khai thác dầu mỏ dưới đáy biển, dầu thường lẫn với nước biển, do đó cần có phương pháp hiệu quả để tách dầu ra khỏi hỗn hợp này. Dưới đây là một số phương pháp tách dầu mỏ khỏi nước biển:
1. Dựa vào sự khác biệt về tính chất vật lý
a. Phương pháp lắng và tách bằng trọng lực
b. Phương pháp ly tâm
2. Dựa vào phương pháp lọc và hấp phụ
a. Sử dụng vật liệu kỵ nước - ưa dầu
b. Sử dụng màng lọc nano
3. Dựa vào phương pháp hóa học
a. Sử dụng chất phá nhũ
4. Phương pháp kết hợp
Trong thực tế, các phương pháp trên thường được kết hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ:
Kết luận
Tùy vào điều kiện thực tế, các phương pháp cơ học, vật lý, hóa học hoặc kết hợp sẽ được áp dụng để tách dầu mỏ ra khỏi nước biển một cách hiệu quả. Trong ngành công nghiệp dầu khí, phương pháp ly tâm và sử dụng chất phá nhũ là phổ biến nhất do hiệu suất cao và khả năng xử lý lượng dầu lớn.