Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1:
Xuất phát từ câu nói của sứ giả Nguyễn Thư Hiên chép ở sách Dư địa chí do Nguyễn Trãi biên soạn có lời của Nguyễn Thiên Túng liên quan đến 4 xứ: “Nguyễn Như Hiên nói” Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao Lạng đều rất đáng sợ”. Câu nói có liên quan đến hai xứ Thanh và Nghệ, là mảnh đất sản sinh ra những con người, vua chúa, quan thần của đất nước. Xứ Thanh xưa mà nay là Thanh Hóa là nơi kinh đô của đất nước, nơi có nhiều vua, chúa nhất nước.
Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý được đổi tên thành Thanh Hóa. Theo sách Dư địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi, hình thể tốt có thể xem như yết hầu của đất nước. Chính vì vậy nơi đây trở thành chỗ quân Tây Sơn lui về để ngăn bước tiến quân Thanh.
Câu 2:Theo em đó là công trình Thành nhà Hồ.
Thành nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yến, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang,
Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc ( huyện Vĩnh Lộc) tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Đại Việt từ năm 1398-1407.Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thầnHồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng 1 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.Mặc dù thành Tây Đô, với bốn bức tường và cổng thành còn lại tương đối nguyên vẹn, sẽ là rất đơn giản trong việc xác định về cấu trúc toà thành, nhưng các công trình nghiên cứu trước nay đều đưa ra các số liệu khác nhau về kích thước tường thành, cổng thành và do đó, việc nhận định về cấu trúc toà thành vẫn chưa thống nhất.

1) Nông nghiệp:
-Ruộng đất công thuộc quyền sở hữu của làng xã
-Khuyến khích khai hoang, đào kênh ngòi-nông nghiệp phát triển
2)aVua(Thái thượng hoàng)-Quan đại thần-Quan văn, quan võ
3) Phát triển mạnh nhờ nền kinh tế được thúc đẩy, mang đậm lòng yêu nước nho nhà Trần biết khích lệ, quan tâm đến đời sống nhân dân, chiến thắng Mông-Nguyên đã đem lại niềm tự hào rất lớn cho dân tộc

- Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta
- Từ giữa thế kỉ XI, tình hình nhà Tống gặp phải những khó khăn : Ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn, nông dân khởi nghĩa, vùng biên cương phía bắc nhà Tống hai nước Liêu, Hạ quấy nhiễu...
- Nhà Tống quyết định thông qua chiến tranh để giải quyết tình trạng khủng hoảng trong nước nên quyết định xâm lược Đại Việt.
- Nhà Tống xúi giục vua Cham-pa đánh lên từ phía Nam, còn ở biên giới phía Bắc của Đại Việt nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, dụ dỗ các tù trưởng dân tộc.
- - Lý Thường Kiệt được cử làm Tổng chỉ huy tổ chức kháng chiến.
- Cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm.
- Phong tước các cho các Tù trưởng, mộ thêm binh đánh trả
các cuộc quấy phá, dụ dỗ của quân Tống .
- Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý
đồ tiến công phối hợp của Nhà Tống với Chăm pa

Ko có trên mạng nha
Trả lời:
* Đối với dân tộc Việt Nam:
- Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
- Người đã chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta thông qua các sách báo như Nhân đạo, người cùng khổ, Đường Kách Mệnh,....
+ Thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ( 6/1925)
- Với thiên tài và uy tín Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất ba tổ chức Cộng sản thành một chính Đảng duy nhất – Đảng Cộng Sản Việt Nam (6/1/1930)
- Đề ra đường lối cơ ban cho cách mạng Việt Nam, Vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đó là Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
* Đối với cách mạng thế giới:
- Xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng ở chính quốc...
- Cỗ vũ phong trào đấu tranh chống áp bức của các nước thuộc địa.
- Làm phong phú thêm kho tàng lí luận chũ nghĩa Mác – Lênin.
*Hoạt động chủ yếu của NAQ từ 1919-1930:
+6-1919 NAQ đã gửi tời hội nghị Véc xai bản yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền dân tộc cơ bản của nhân dân An Nam.
+7-1920 NAQ đã đọc được bản sơ thảo Luận cương của lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
+12-1920 NAQ tham gia đại hội Tua của Đảng Xã Hội Pháp và tham gia sáng lập ĐCS Pháp và tuyên bố đứng hẳn về phía Quốc tế III.
+1921 NAQ sáng lập ra hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa.
+6-1923 NAQ dời Pháp đi Liên Xô.
+1924 NAQ tham dự Đại hội IV của QTCS và tham dự Đại hội quốc tế nông dân.
+11-1924 NAQ về Quảng Châu Trung Quốc tập hợp những người VN yêu nước tại Quảng Châu để chuẩn bị thành lập một tổ chức cách mạng tiên tiến.
+2-1925 NAQ cải tổ Tâm Tâm xã thành tổ chức Cộng Sản đoàn.
+6-1925 NAQ sáng lập ra Hội VNCMTN mà hạt nhân là Cộng Sản Đoàn.
+21-6-1925 Người sáng lập ra tờ báo cách mạng làm cơ quan ngôn luận cho Hội VNCMTN lấy tên là báo Thanh Niên do Người làm chủ bút
+1927 tập hợp những bài giảng của NAQ tại Quảng Châu Trung Quốc đã được xuất bả thành sách lấy tên là Đường Kách Mệnh.
+6-1 đến 8-2-1930 NAQ chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản để thành lập ra ĐCSVN.
+2-1930 NAQ soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
*Vai trò:
+Tìm ra con đường cứu dân cứu nước đúng đắn và giải phóng dân tộc VN khỏi ách áp bức bóc lột của TDf đó là con đường đi theo CNXH (độc lập dân tộc gắn liền với CNXH)
+Truyền bá chủ nghĩa Mác Lê Nin vào trong nước thông qua con đường sách báo và các tổ chức do người sáng lập.
+Thành lập ra Hội VNCMTN tỏ chức tiền thân của ĐCSVN sau này.
+Trực tiếp phát hiện,đào tạo và bồi dưỡng nhiều cán bộ cho cách mạng sau này.
+Chủ động triệu tập hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản sáng lập ra ĐCSVN.
+Đưa ra cương lĩnh đấu tranh đầu tiên cho cách mạng VN.Một cương linhc thể hiện sự đúng đắn sáng tạo khoa học.
*Trong đó vai trò lớn nhất là tìm ra con đường cứu nước và gpdt.Vận động thành lập ĐCSVN.

1. Mô tả sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa qua 2 giai cấp :
- Giai cấp tư sản : Các chủ xưởng, chủ đồn điền và những thương nhân giàu có
- Giai cấp vô sản : Người làm thuê
Giai cấp tư sản dùng đủ mọi hình thức để bóc lột đến kiệt quệ sức lao động của giai cấp vô sản
~~~> Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành
- Giai cấp tư sản : Quý tộc, thương nhân giàu có nhờ cướp của và tài nguyên các nước thuộc địa. Họ mở rộng sản xuất, lập đồn điền. Bóc lột những người làm thuê.
- Giai cấp vô sản : Nông nô bị tước đoạt ruộng đất nên phải làm thuê cho tư sản và bị tư sản bóc lột.
* Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành.
Nhớ tick cho mk nha !
Đồng chí Trần Phú (bí danh Lý Quý), sinh ngày 1 tháng 5 năm 1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; nguyên quán xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ và thân mẫu của đồng chí Trần Phú là ông Trần Văn Phổ và bà Hoàng Thị Cát.
Năm 1922, đỗ đầu kỳ thi Thành chung ở Trường Quốc học Huế, đồng chí được bổ nhiệm làm giáo viên Trường Tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An).
Giữa năm 1925, đồng chí gia nhập Hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hội Hưng Nam và Tân Việt Cách mạng Đảng), tổ chức của những trí thức yêu nước.
Năm 1926, đồng chí tham gia: phong trào đấu tranh đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở lớp dạy chữ quốc ngữ cho công nhân và nông dân.
Tháng 7/1926, Hội Phục Việt cử đồng chí và một số hội viên sang Quảng Châu (Trung Quốc) để đề nghị với Nguyễn Ái Quốc cho Hội hợp nhất với Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng. Đồng chí gặp Nguyễn Ái Quốc, được tham gia lớp huấn luyện chính trị khóa 2 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng dạy.
Tháng 10/1926, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kết nạp vào Cộng sản Đoàn. Kết thúc khóa học, đồng chí về nước hoạt động, nhưng bị địch truy lùng ráo riết. Đồng chí trở lại Quảng Châu, làm việc tại Tổng bộ Thanh niên.
Cuối tháng 1/1927, đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giới thiệu sang Liên Xô học Trường đại học Phương Đông.
Đầu tháng 11/1929, sau khi tốt nghiệp Đại học Phương Đông, đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, bí mật lên tàu đi Lêningrát (nay là thành phố Xanh Pêtécbua thuộc Liên bang Nga) bắt đầu hành trình về nước hoạt động.
Ngày 8/2/1930, đồng chí về đến Sài Gòn. Ít ngày sau đồng chí sang Hồng Kông (Trung Quốc) gặp Nguyễn Ái Quốc. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu đồng chí Trần Phú về tham gia hoạt động trong Ban Chấp uỷ lâm thời.
Tháng 4/1930, đồng chí về đến Hải Phòng. Tháng 7/1930 đồng chí được bổ sung vào Ban Chấp uỷ lâm thời và được giao nhiệm vụ dự thảo Luận cương chính trị của Đảng.
Tháng 10/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc) Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận và nhất trí thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú dự thảo. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại Hội nghị này, đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí đã trực tiếp chủ trì: Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng tháng 12/1930, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng tháng 1/1931 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai tại Sài Gòn tháng 3/1931. Dưới sự chủ trì của đồng chí, các quyết nghị của Trung ương giai đoạn này đã góp phần đưa phong trào cách mạng Đông Dương phát triển lên một tầm cao mới.
Do có kẻ phản bội khai báo, ngày 18/ 4/1931, đồng chí đã bị địch bắt tại số nhà 66, đường Sămpanhơ (nay là đường Lý Chính Thắng, thành phố Hồ Chí Minh). Biết đồng chí là lãnh đạo cao cấp của Đảng, thực dân Pháp và bọn tay sai đã đưa đồng chí về giam giữ ở Khám lớn Sài Gòn. Trước những đòn tra tấn dã man và chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc, sức khỏe của đồng chí giảm sút nhanh chóng, bệnh tình của đồng chí ngày một trầm trọng. Ngày 6/9/1931, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà thương Chợ Quán, Sài Gòn.
Để tỏ lòng biết ơn công lao to lớn của đồng chí Trần Phú đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ngày 12/1/1999 Đảng và Nhà nước quyết định tổ chức trọng thể Lễ truy điệu đồng chí Trần Phú tại thành phố Hồ Chí Minh. Thể theo nguyện vọng của gia quyến và gia tộc của đồng chí Trần Phú, Đảng và Nhà nước tổ chức di dời hài cốt của đồng chí về an táng tại núi Quần Hội, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.