Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1. - Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, hào kiệt khắp nơi kéo về tụ nghĩa. Chưa đầy 3 tháng sau, nghĩa quân đã đánh chiếm đc hầu hết các quận huyện. Tiêu Tư phải bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc.
- Cuộc tấn công đàn áp của nhà Lương :
+ Lần thứ nhất : Tháng 4 năm 542, Lý Bí chủ động kéo quân lên phía Bắc và đánh bại quân Lương, giải phóng thêm Hoàng Châu.
+ Lần thứ hai: Đầu năm 543, Lý Bí chủ động đón đánh địch ở Hợp Phố, quân giặc bị đánh tan.
2.
- Lên ngôi Hoàng đế (Lý Nam Đế) vào đầu năm 544.
- Đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời).
- Thành lập triều đình với hai ban văn, võ.
3.
- Thể hiện ước muốn của Lý Bí, của nhân dân ta mong muốn nền độc lập dân tộc được trường tồn.
- Khẳng định ý chí giành độc lập của dân tộc, mong đất nước mãi mãi thanh bình, yên vui, tươi đẹp như một vạn mùa xuân.
Câu 1:
Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lý Bí:
- Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, hào kiệt khắp nơi kéo về hưởng ứng.
- Chưa đầy 3 tháng sau, nghĩa quân đã đánh chiếm được hầu hết các quận, huyện. Tiêu Tư phải bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc.
- Cuộc tấn công đàn áp của nhà Lương:
+ Lần thứ nhất: tháng 4 - 542, nhà Lương huy động quân từ Quảng Châu sang đàn áp. Nghĩa quân đánh bại quân Lương, giải phóng thêm Hoàng Châu (Quảng Ninh).
+ Lần thứ hai: Đầu năm 543, nhà Lương tổ chức cuộc tấn công đàn áp lần thứ hai. Quân của Lý Bí chủ động đón đánh ở Hợp Phố, quân giặc bị đánh tan.
=> Cuộc khởi nghĩa thắng lợi.

3 ,Em có suy nghĩ gì về việc đặt tên nước là Vạn Xuân Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân thể hiện lòng mong muốn cho sự trường tồn của dân tộc, của đất nước. Khẳng định ý chí giành độc lập của dân tộc, mong đất nước mãi thanh bình, yên vui, tươi đẹp như một vạn xuân.
.Lý Bí đã làm gì sau thắng lợi cuộc khởi nghĩa?
Sau khi giành thắng lợi, Lý Bí đã:
- Lên ngôi Hoàng đế (Lý Nam Đế) vào đầu năm 544.
- Đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời).
- Thành lập triều đình với hai ban văn, võ.

Khởi nghĩa Lí Bí:
a) Nguyên nhân:
- Do chính sách thống trị tàn bạo của nhà Lương.
b) Diễn biến:
- Năm 542, Lí Bí dựng cờ khởi nghĩa , được các hào kiệt và nhân dân khắp nơi trưởng ứng.
- Chưa đầy 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được hầu hết các quận, huyên; thứ sử Tiên Sư hoảng sợ bỏ chạy về Trung Quốc.
- Tháng năm 542, quân Lương huy động quân sang đàn ác, nghĩa quân đánh bại quân Luong, giải phóng Hoàng Châu.
- Đầu năm 543, nhà Lương tấn công lần 2, ta đánh địch ở Hợp Phố.
c) Kết quả:
- Năm 544, Lí Bí lên ngôi hoàng đế ( Lý Nam Đế ), đặt tên nước là Vạn Xuân.
- Dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch.
- Lý Nam Đế thành lập triều đình mới với 2 ban: văn, võ.
Việc thành lập nước vạn Xuân có ý nghĩa là thể hiện lòng mong muốn sự trường tồn của dân tộc, của đất nước.
a. nguyên nhân
chính sách cai trị tàn bạo bóc lột của nhà Lương
b. diễn biến
-năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái Bình, hào kiệt khắp nơi kéo về hưởng ứng. Chưa dầy 3 tháng ta đã chiếm đc hầu hết các quận huyện, Tiêu Tư bỏ chạy về TQ.
-tháng 4-542 , nhà Lương kéo từ Quảng Châu sang đàn áp, nghĩa quân đánh bại.
-Đầu năm 543 nhà Lương kéo quân sang lần 2, ta chủ động đánh chúng ở Hợp Phố, quân Lương đại bại .
-Cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.
c Ý nghĩa :
đánh tan quân xâm lược và giành lại độc lập cho dân tộc

2) Nhà lương xiết chặt ách đô hộ:
- Về hành chính: nhà Lương chia lại đất nước ta thành các quận, huyện và đặt tên mới:
+ Giao châu (đồng bằng và trung du Bắc bộ)
+ Ái Châu (Thanh Hóa)
+ Đức Châu, Lợi Châu, Minh Châu (Nghệ Tĩnh)
+ Hoàng Châu (Quảng Ninh)
- Chủ trương: Chỉ có tôn thất nhà Lương và 1 số dòng họ lớn mới đc giao giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy cai trị.
- Nhà Lương đặt ra nhiều thứ thuế
Diễn biến cuộc khởi nghĩa lí bí:
- Năm 542- cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ đc các hào kiệt khắp nơi hưởng ứng
- Ở Chu Diên có Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục; ở Thanh Trì có Phạm Tu; ở Thái Bình có Tinh Thiều... Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết các quận, huyện; Tiêu Tư bỏ chạy về Trung Quốc
- Tháng 4 - 542 và đầu năm 543, nhà Lương 2 lần kéo quân sang đàn áp nhân dân ta, quân ta chủ động tiến đánh địch và giành thắng lợi.
- Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế (Lí Nam Đế), đặt tên nc là Vạn Xuân, xây dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), lập triều đình vs 2 ban văn võ
KQ, Ý nghĩa
- Khởi nghĩa Lý Bí giành thắng lợi, Lí Bí lên ngôi hoàng đế, lập nc riêng, thể hiện tinh thần, ý chí độc lập
Chúc bn học tốt

Diễn biến chính của cuộc khởi nghĩa:
- Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, hào kiệt khắp nơi kéo về tụ nghĩa... Chưa đầy 3 tháng sau, nghĩa quân đã đánh chiếm được hầu hết các quận huyện. Tiêu Tư phải bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc.
- Cuộc tấn công đàn áp của nhà Lương :
+ Lần thứ nhất : Tháng 4 năm 542, Lý Bí chủ động kéo quân lên phía Bắc và đánh bại quân Lương, giải phóng thêm Hoàng Châu.
+ Lần thứ hai: Đầu năm 543, Lý Bí chủ động đón đánh địch ở Hợp Phố, quân giặc bị đánh tan.
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, việc làm của Lý Bí :
- Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập triều đình với hai ban văn, võ.
* Diễn biến :
- Mùa xuân năm 542, Lý Bí cùng các hào kiệt nổi dậy khởi nghĩa ở Sơn Tây ( Thái Bình ) → Sau 3 tháng ,nghĩa quân giành thắng lợi ở nhiều nơi.
- Từ tháng 4 / 542 đến 543 , nhà Lương 2 lần đem quân sang đàn áp.
→ Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.
* Các việc làm của Lý Bí sau cuộc khởi nghĩa.
- Năm 544 , Lý Bí lên ngôi hoàng đế ( Lý Nam Đế ).
- Đặt tên nước là Vạn Xuân. Đóng đô ở vùng sông Tô Lịch ( Hà Nội ).
- Tổ chức lại bộ máy cai trị.

Câu 1 :
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa :
Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập triều đình với hai ban văn, võ.Đứng đầu ban văn là Tinh Thiều , ban võ là Phạm Tu
Câu 2 :
:Họ Khúc đã giành lại độc lập cho đất nước :
- Lợi dụng nhà Đường suy yếu vì phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa của nông dân Trung Quốc, Khúc Thừa Dụ tập hợp nhân dân nổi dậy.
- Năm 905, nhân lúc Tiết độ sứ An Nam là Độc Cô Tổn bị cách chức, được nhân dân ủng hộ, Khúc Thừa Dụ đã tổ chức đánh chiếm thành Tống Bình, tự xưng là Tiết độ sứ, xây dựng chính quyền tự chủ.
- Năm 906, vua Đường buộc phải phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
Câu 3 :
Ý nghĩa cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược lần thứ nhất của Dương Đình Nghệ :
- Khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta..
- Khẳng định nhân dân ta có đủ sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc...
- Tinh thần đoàn kết , yêu nước
Khởi nghĩa Lý Bí và Nhà nước Vạn Xuân (542 - 602)
Khởi nghĩa Lý Bí và Nhà nước Vạn Xuân (542 - 602)
1. Ách đô hộ của nhà Lương
Vào nửa đầu thế kỷ thứ sáu, đất nước ta bị phong kiến nhà Lương thống trị. Nhà Lương đã chia lại các khu vực hành chính, lập thêm châu, đặt thêm quận, tuyển thêm quan lại để thu vét thuế. Trồng cây dâu cao một thước (1) cũng phải nộp thuế, thậm chí bán vợ đợ con cũng phải đóng thuế. Nhà Lương còn thi hành chính sách phân biệt đối xử rất gay gắt. Chỉ có con cháu nhà Lương và một số dòng họ lớn (họ Vương, họ Tạ...) mới được giao giữ chức vụ quan trọng. Thứ sử châu Giao bấy giờ là Tiêu Tư, người cùng một họ với vua Lương, nổi tiếng tham lam gian ác. Nhân dân ta ai ai cũng đem lòng oán hận. Sử sách Trung Quốc cũng phải thú nhận Tiêu Tư "tàn bạo mất lòng dân".
2. Khởi nghĩa Lý Bí
Lý Bí là một hào trưởng địa phương, quê ở huyện Thái Bình (có lẽ thuộc vùng hai bên bờ sông Hồng, phía trên thị xã Sơn Tây). Có tài, võ giỏi mưu cao, ông còn là người rất mực yêu nước, thương dân.
Một thời gian, Lý Bí có giữ một chức quan nhỏ, coi việc quân ở Châu Đức (Hà Tĩnh). Nhận thấy tình cảnh cơ cực của dân, ông đem lòng chán ghét chính quyền đô hộ. Cuối cùng, ông từ chức về quê nhà, mưu tính việc lớn. Nhân lòng oán hận quân Lương của mọi người, Lý Bí đã chiêu mộ được nhiều quân, trữ được nhiều lương thực. Ông còn liên kết với hào kiệt các nơi chuẩn bị cùng nổi dậy.
Theo sử cũ, bấy giờ Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục ở vùng Chu Diên hưởng ứng đầu tiên. Tiếp theo là Tinh Thiều, Phạm Tu cùng hào kiệt nhiều nơi khác. Tinh Thiều cũng quê ở Thái Bình. Học giỏi, văn hay, nhưng vì không thuộc dòng dõi quý tộc nên Tinh Thiều chỉ được phong chức "canh cổng thành". Bất bình, ông không nhận chức, về quê cùng Lý Bí mưu tính khởi nghĩa. Lão tướng Phạm Tu, người Thanh Trì (Hà Nội), bấy giờ đã ngoài sáu mươi, vẫn cùng lớp trai làng hăng say việc nước.
Mùa xuân năm 542, Lý Bí phất cờ nổi dậy. Khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã chiếm được hầu hết các quận, huyện. Thứ sử Tiêu Tư run sợ, vội vã bỏ thành Long Biên (Yên Phong - Bắc Ninh) rút chạy về Trung Quốc. Lý Bí đem quân vào Long Biên, ổn định tình hình mọi mặt. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lương lập tức hạ lệnh cho quân phản công chiếm lại. Bọn xâm lược vừa kéo sang đã bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.
Đầu năm sau (543), vua Lương lại lệnh cho quân sang xâm lược lần nữa. Bọn tướng chỉ huy quân Lương lúc này vừa khiếp sợ, vừa mệt mỏi, đang còn dùng dằng chưa dám tiến quân, Lý Bí chủ động ra quân đón đánh địch ở bán đảo Hợp Phố (bấy giờ thuộc châu Giao). Quân Lương mười phần chết đến bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sót cũng bị vua Lương bắt phải tự tử.
3. Dựng nước Vạn Xuân độc lập (544)
Mùa xuân năm 544, sau khi đánh đuổi được quân đô hộ và đánh lùi hai lần phản công xâm lược của nhà Lương, Lý Bí tự xưng hoàng đế tức Lý Nam Đế. Lý Nam Đế lấy tên nước là Vạn Xuân (2), đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ (3) làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng quan võ, Tinh Thiều đứng đầu quan văn, Triệu Túc làm thái phó (chức quan cao, cột trụ của triều đình), Triệu Quang Phục là tướng trẻ, có tài, cũng được trọng dụng. Lý Nam Đế lại cho dựng một ngôi chùa đặt tên là chùa Khai Quốc (4).
4. Chống quân Lương xâm lược
Tháng 5 năm 545, vua Lương lại phái quân sang đánh Vạn Xuân. Bấy giờ, nhà Lương vừa đàn áp được những cuộc nổi dậy của nông dân Trung Quốc, đã dồn sức vào cuộc tấn công xâm lược lần thứ ba này. Dương Phiêu được cử làm thứ sử châu Giao cùng với Trần Bá Tiên, một viên tướng rất hiếu chiến, tổ chức cuộc xâm lược. Địch chia hai đường thủy, bộ phối hợp cùng tiến sâu vào nước ta.
Lý Nam Đế đem quân chống cự ở vùng Lục Đầu (thuộc Hải Dương) nhưng không cản được địch. Vua cho quân lui về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Song thành bằng đất, lũy bằng tre gỗ mới dựng không giữ được lâu. Quân địch đang mạnh, tấn công rất ác liệt. Thành Tô Lịch vỡ, lão tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế lại phải lui quân, ngược sông Hồng về giữ thành Gia Ninh (ở miền đồi núi Việt Trì). Quân Lương đuổi theo, vây hãm, chiếm được thành Gia Ninh (đầu năm 546). Lý Nam Đế cùng với tướng sĩ rút vào miền núi Phú Thọ.
Được sự ủng hộ tích cực của nhân dân các dân tộc, chỉ vài tháng sau Lý Nam Đế đã khôi phục được lực lượng, quân số lên tới vài vạn người, Lý Nam Đế lại đem quân và thuyền bè ra đóng ở hồ Điển Triệt.
Hồ Điển Triệt nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15km. Xưa có con ngòi thông sông với hồ, ba mặt đông, nam, bắc của hồ là các dải đồi cao, phía tây là những đồi thấp hơn và cánh đồng trũng. Từ sông Lô chỉ có một đường đi vào phía bắc của hồ. Thấy quân Lý Nam Đế xuất hiện, quân Lương từ Gia Ninh ngược sông Lô kéo lên tấn công.Bị đánh cản kịch liệt, quân Lương không tiến lên được, phải đóng ở giữa đồng trống. Quân lính mỏi mệt, tướng chỉ huy nhiều tên cũng chán nản. Nhưng Trần Bá Tiên vừa hung hăng vừa xảo quyệt. Nhân một đêm trời mưa to gió lớn, y đã thúc quân tràn vào đánh úp nơi Lý Nam Đế đóng quân. Không trở tay kịp, quân ta tan vỡ nhanh chóng.
Lý Nam Đế lại phải lui vào động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh vua là Lý Thiên Bảo, cùng Lý Phật Tử (một người trong họ và là tướng của Lý Nam Đế) đem một cánh quân lui vào Thanh Hóa. Vua trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Hai năm sau, Lý Nam Đế mất.
5. Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân Lý Bí (503-548)
Tháng 2-544, ông tuyên bố dựng nước, đặt Quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng. Ông là người Việt Nam đầu tiên xưng Đế khẳng định chủ quyền và lòng tự hào dân tộc.
Ông đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng, Đại Đức theo sử Bắc hay Thiên Đức theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).
Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.
Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước. Cơ cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm (Ba Vì) "để phòng ngừa Di Lão".
Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới, theo chế độ tập quyền trung ương.
Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để làm nơi văn võ bá quan triều hội. Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, "chùa Mở Nước" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa! chùa Khai Quốc
rồi tự tìm đê ^-