Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 2 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Hoàn thành bảng về lần thử thách thứ NHẤT của em bé thông minh.
Người ra câu đố | Nội dung câu đố | Cách giải đố của em bé |
|
|
|
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Hoàn thành bảng về lần thử thách thứ HAI của em bé.
Người ra câu đố | Nội dung câu đố | Cách giải đố của em bé |
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Hoàn thành bảng về lần thử thách thứ BA của em bé.
Người ra câu đố | Nội dung câu đố | Cách giải đố của em bé |
|
|
|
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Ai là người ra câu đố trong lần thử thách thứ tư của em bé
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Câu đố của sứ thần là gì?
Xâu
EM BÉ THÔNG MINH
(Truyện cổ tích)
Ngày xưa có một ông vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu quan cũng ra những câu đố oái oăm(1) để hỏi mọi người. Đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng viên quan vẫn chưa thấy có người nào thật lỗi lạc(2).
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Quan bèn dừng ngựa lại hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe chuyện, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn nữa, vua cho thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng(3) lo lắng, không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày, em liền bảo cha:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh(4) lo liệu việc đó.
- Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu, con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện với dân làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan(5), mới dám ngả trâu(6) đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường vào kinh. Đến hoàng cung(7), con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng(8) khóc um lên. Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
- Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu để em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần(9) đều bật cười. Vua lại phán:
- Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Vua cười, bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra mà thịt ăn với nhau à?
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần(10) chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán(11), bỗng có sứ giả nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu ông trạng(12) và các nhà thông thái(13) được triệu vào(14) đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian đi hỏi em bé thông minh nọ.
Khi viên quan mang dụ chỉ(15) của vua đến thì em còn đang nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tanh tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng, kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
- Cứ theo cách đó xâu là được ngay!
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến vàng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Liền đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự(16) ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Theo Nguyễn Đổng Chi)
Chú thích
(2) Lỗi lạc: tài giỏi khác thường, vượt trội mọi người.
(3) Tưng hửng: ngẩn ra vì bị mất hứng thú đột ngột khi sự việc xảy ra trái với điều mình mong muốn và tin chắc.
(4) Trẩy kinh: đi đến kinh đô (trẩy: đi đến; kinh: kinh đô).
(5) Cam đoan: khẳng định điều mình trình bày là đúng và hứa chịu trách nhiệm để người khác tin.
(6) Ngả trâu: mổ trâu để lấy thịt.
(7) Hoàng cung: nơi vua ở (hoàng: vua; cung: cung điện).
(8) Sân rồng: sân chầu trước cung điện nhà vua.
(9), (10) Triều thần, đình thần: các quan lại trong triều đình.
(11) Công quán: nhà dành để tiếp các quan phương xa về kinh.
(12) Trạng: ở đây chỉ nhân vật có tài đặc biệt trong truyện kể dân gian.
(13) Nhà thông thái: người có kiến thức sâu và rộng.
(14) Triệu vào: ra lệnh gọi vào (triệu: ra lệnh gọi).
(15) Dụ chỉ: lời vua truyền bảo.
(16) Dinh thự: nhà to, đẹp, dành riêng cho những người có chức tước cao.
Em bé đã giải câu đố của sứ thần như thế nào?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Xin chào mừng các con đã quay trở lại về
- khóa học Ngữ văn lớp 6 buổi trang web
- olp.vn trường Đại học Sư phạm Hà Nội các
- con thân mến ở tiết học trước chúng ta
- đã được tìm hiểu chung về tác phẩm em bé
- thông minh và phần đầu tiên của phần tìm
- hiểu chi tiết trong bài học ngày hôm nay
- chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu chi tiết
- về tác phẩm đó là cụ thể về những lần
- thử thách của em bé thông minh Trước hết
- là lần thử thách thứ nhất Chúng ta sẽ
- tìm hiểu các lần thử thách qua những nội
- dung sau đó là về người ra câu đố nội
- dung của câu đố là gì Cách giải câu đố
- của em bé và sự lý thú của những cách
- giải đấu ấy vậy các con Hãy dựa vào văn
- bản và cho cô biết trong lần thử thách
- thứ nhất Ai là người ra câu đố câu đố có
- nội dung gì và em bé đã giải câu đố này
- như thế nào rất chính xác trong lần thử
- thách thứ nhất người ra câu đố chính là
- em về nội dung câu đố thì viền quan đã
- hỏi em bé trâu cày một ngày được mấy
- đường và em bé đã giải câu đố bằng cách
- đố lại viên quan ngự một ngày đi được
- mấy bước và cách giải đố này lý thú ở
- chỗ em bé không giải đố bằng cách trực
- tiếp trả lời xem trâu cày được bao nhiêu
- đường Vì thực tế chẳng ai lại đi đếm số
- đường cày của Châu đúng không nào mà
- giải đố bằng cách hỏi ngược lại viên
- quan một câu đố oái oăm và khó trả lời y
- như câu mà miền quà đã đố để đẩy thế bí
- về phía người ra câu đố và sau lời giải
- đố này của em bé liên quan biết mình đã
- tìm được người tài bền bẩm bảo lại cho
- vua vua tiếp tục muốn thử thách thêm em
- bé để khẳng định tài năng của em nên
- những lần thử thách tiếp theo lại xuất
- hiện và chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về
- thử thách lần thứ hai vậy Ở lần thử
- thách thứ hai này các con hãy cho cô
- biết ai là người ra câu đố nộ
- những câu đố là gì và em bé đã giải câu
- đố như thế nào rất chính xác ở lần thử
- thách thứ hai này thì nhà vua là người
- trực tiếp giải câu đố câu đố của nhà vua
- có nội dung như sau vua đã lệnh cho lành
- của em bé Nuôi 3 con trâu đực sao cho
- chúng để thành chín con trong khi cả làm
- em bé đều vô cùng lo sợ vì trâu đực Làm
- sao có thể để con được để mà nuôi Thành
- chín con thì em bé lại rất bình tĩnh bảo
- dân làng hãy thịt trâu và đổ rồi để ăn
- còn mình trực tiếp vào cung để tìm cách
- giải quyết với nhà vua và em đã giải câu
- đố một cách rất thông minh đó là vào
- cùng gặp vua khóc đòi vua bắt bố đẻ em
- bé cho cậu và để vua tự khẳng định và
- nói rằng giống đực không thể sinh con
- điều này rất mâu thuẫn với lệnh vua ban
- cho lành của em bé nên lời giải đố này
- lý thú ở chỗ làm cho người đốt tự thấy
- cái vô lý phi lý của
- khi họ nói và chắc chắn khi ấy nhà vua
- đành phải chịu em bé là thông minh lỗi
- lạc và tiếp tục ra một thử thách khó hơn
- nữa cho em bé chúng ta lại tiếp tục cùng
- đi tìm hiểu về thử thách lần thứ ba này
- các con lại tiếp tục cho cô biết trong
- lần thử thách này ai là người ra câu đố
- câu đố có nội dung như thế nào và em bé
- đã làm thế nào để giải được câu đố này
- gửi ra câu đố này vẫn là nhà vua câu đố
- có nội dung như sau từ một con chim sẻ
- làm thành bà cổ thức ăn và em bé đã giải
- câu đố này cũng bằng cách đố lại đó là
- đưa cho nhà vua cây kim để rèn thành con
- dao xẻ thịt chim xử lý thú của cách giải
- câu đố này cũng giống với lần em bé đã
- giải câu đố của viên quan đó chính là
- đẩy thế bí về phía người ra câu đố sau
- khi em bé vượt qua thử thách lần thứ ba
- này nhà vua đã phục hận và bàn thưởng
- rất hậu thì lại xuất hiện một sự việc
- Em thử thách khó khăn hơn và còn liên
- quan đến cả chủ quyền của dân tộc Vậy
- lần này em về xử lý ra sao thì chúng ta
- cùng tiếp tục tìm hiểu thử thách thứ tư
- các con hãy tiếp tục tìm ra cho cô trong
- lần thử thách thứ Tư này ai là người ra
- câu đố câu đố có nội dung gì và em bé đã
- giải câu đố như thế nào rất chính xác
- trong lần thử thách thứ tư người ra câu
- đố chính là sứ thần của nước láng giềng
- với mục đích thăm dò xem nước ta có nhân
- tài hay không câu đố có nội dung như sau
- đó là sau một sợi chỉ mảnh quà ruột con
- ông bạn rất dài ngay qua tưởng chừng như
- câu đố này thật đơn giản nhưng nó lại
- khiến cho cả triều đình vua và các quan
- đều lắc đầu bó tay và em bé đã giải câu
- đố này một cách rất hồn nhiên qua một
- câu hát Đồng Dao đó là bắt con kiến càng
- buộc chỉ ngang lưng bên thời lấy giấy mà
- bưng bền thời bồi mỡ
- thì kiếm sang kiến là một con vật rất
- nhỏ có thể đi qua được cả những không
- gian cực kỳ chật hẹp và lại có đặc điểm
- là thích mỡ nên dùng con kiến để sâu sợi
- chỉ mảnh quà ruột ốc là cực kỳ phù hợp
- cách giải đố này lý thú ở chỗ đó là đã
- dùng kinh nghiệm của đời sống dân gian
- bằng những quan sát và kinh nghiệm có
- được trong cuộc sống hàng ngày em bé đã
- giải câu đố một cách thật đơn giản thú
- vị mà vẫn vô cùng hồn nhiên vậy là vừa
- rồi chúng ta đã cùng đi tìm hiểu về nội
- dung của những lần thử thách bây giờ cô
- và các con sẽ cùng đi Nhận xét về những
- lần thử thách này nhận xét đầu tiên mà
- chúng ta có được đó chính là lần thử
- thách sau thì khó hơn thử thách lần
- trước thứ nhất đó là ở người đố Lần đầu
- thì chỉ là viên quan hai lần tiếp theo
- là vua và lần cuối cùng cậu bé phải đối
- đáp với cả sứ thần của nước ngoài Và
- thậm chí chuyện có trả lời được câu đố
- hay không còn
- cho đến cả vận mệnh của dân tộc không
- Chỉ Vậy lần sau còn khó hơn lần trước ở
- tính chất của câu đố điều đó trước hết
- thể hiện ở chính nội dung yêu cầu của
- những câu đố và mặt khác nó còn thể hiện
- ở những đối tượng phải tham gia giải đố
- chính từ đây tài trí của em bé càng nổi
- rõ sự thông minh hơn người lần thứ nhất
- để làm nổi bật sự oái oăm của câu đố và
- tài trí của Cậu bé chuyện chỉ so sánh
- cậu bé với một người đó là người cha của
- cậu lần thứ 2 thì so sánh cậu bé với
- toàn thể dân làng dân làng rất lo lắng
- không biết làm sao coi đó là tai vạ còn
- em bé thì vô cùng bình tĩnh và vui vẻ
- đến lần thứ ba lại so sánh cậu bé với
- vua câu đố lại có nội dung và yêu cầu
- tương tự của cậu bé đã làm cho vua từ đó
- phải phục hận và lần thứ Tư lần cuối
- cùng thì so sánh cậu bé với cả vua quan
- đại thần các ông chạm và cả các nhà
- thông thái
- ý của sứ thần làm tất cả phải vò đầu suy
- nghĩ lắc đầu bó tay xử cậu bé vừa đùa
- nghịch ở sau nhà vừa đáp một cách rất
- hồn nhiên những thử thách này không chỉ
- lần sau khó hơn lần trước mà thứ hai thể
- hiện rằng em bé giải đố đều không dựa
- vào kiến thức sách vở mà dựa vào kiến
- thức đời sống và kinh nghiệm dân gian em
- bé được coi là thông minh không phải qua
- sự nghĩa văn chương ngày thi cử truyện
- cổ tích này tùy không phủ nhận kiến thức
- sách vở nhưng tập trung ca ngợi và đề
- cao kinh nghiệm đời sống cuộc đấu trí
- của em bé thông minh xoay quanh câu
- chuyện về đường cày bước chân ngựa con
- trâu con chim sẻ con ốc con kiến vàng em
- bé thông minh trong truyện tiêu biểu cho
- trí khôn và sự thông minh được đúc kết
- từ đời sống và được vận dụng trong thực
- tế và cuối cùng những thử thách này càng
- khẳng định và ngợi ca trí tuệ thông minh
- hơn người của em bé và qua những lần thử
- thách này chúng ta cũng có thể
- em chẳng những thử thách đã để cào trí
- thông minh của em bé và mang lại tiếng
- cười sảng khoái cho người đọc và người
- nghe từ câu đố của viên Quang của vua và
- sự thật nước ngoài đến những lời giải
- đáp của em bé đều tạo các tình huống bất
- ngờ thú vị nội dung yêu cầu phần đủ và
- đáp đem lại tiếng cười vui vẻ không chỉ
- vậy cũng thể hiện rằng em bé thông minh
- tải Chỉ hơn người nhưng Luôn hồn nhiên
- ngây thơ trong sự đối đáp vậy là vừa rồi
- chúng ta đã hoàn thành việc đi tìm hiểu
- những nội dung chính của văn bản em bé
- thông minh bây giờ cô và các con sẽ cùng
- tổng kết lại những giá trị quan trọng
- của tác phẩm Quà phần tổng kết chúng ta
- sẽ tổng kết về nội dung và nghệ thuật
- của tác phẩm về nội dung chúng ta cần
- thấy được rằng chuyện đã ca ngợi để cào
- kinh nghiệm và trí tuệ dân gian không
- chỉ vậy còn có ý nghĩa hài hước và vui
- con về nghệ thuật thì chuyện đã dùng câu
- đố thử tài tạo tình huống thử thách
- để nhân vật bộc lộ tài năng và phẩm chất
- và cuối cùng chuyện có cách dẫn dắt sự
- việc gắn với sự tăng dần của độ khó
- trong các câu đố tạo sự bất ngờ ấn tượng
- cho người đọc và người nghe vậy là bài
- học ngày hôm nay của chúng ta dừng lại
- tại đây Cảm ơn các con đã chú ý quan sát
- và lắng nghe hẹn gặp lại các con ở những
- bài giảng tiếp theo
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây