Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Video 1 SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Đoạn video (trong bài giảng) khiến em liên tưởng tới truyền thuyết nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Sự ra đời khác thường của Thánh Gióng được kể như thế nào?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Chi tiết nào sau đây thể hiện sự bất tử của Gióng?
THÁNH GIÓNG(1)
(Truyền thuyết)
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng(2) có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai(3) và mười hai tháng(4) sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả(5) đi khắp nơi đi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp(6) sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Sứ giả vừa kinh ngạc(7), vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc vừa xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng đem gom góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu(8). Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt(9). Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ(10) mình cao hơn trượng(11), oai phong, lẫm liệt(12). Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi(13) thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân(14) giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn)(15). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong(16) là Phù Đổng Thiên Vương(17) và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là Làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà(18) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy(19).
(Theo Lê Trí Viễn)
Chú thích
(1) Thánh Gióng: đức thánh làng Gióng (thánh: anh minh, tài đức phi thường, có khi được coi như có phép mầu nhiệm, thường được thờ ở các đền như đức thánh Tản Viên, đức thánh Trần - Trần Hưng Đạo...)
(2) Làng Gióng: trước đây thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
(3) Thụ thai: bắt đầu có thai (có chửa, mang bầu...).
(4) Mười hai tháng: đây là sự mang thai khác thường (người bình thường chỉ mang thai chín tháng mười ngày thì sinh con). Trong truyện cổ dân gian, chi tiết này biểu hiện "sự ra đời thần kì".
(5) Sứ giả: người vâng mệnh trên (ở đây là vua) đi làm một việc gì ở các địa phương trong nước hoặc nước ngoài (sứ: người được vua hay nhà nước phái đi đại diện; giả: kẻ, người).
(6) Áo giáp: áo được làm bằng chất liệu đặc biệt (da thú hoặc sắt, ...) nhằm chống đỡ binh khí, bảo vệ cơ thể).
(7) Kinh ngạc: thái độ rất ngạc nhiên trước hiện tượng kì lạ và bất ngờ.
(8) Núi Trâu: xưa thuộc đất Vũ Ninh, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
(9) Hoảng hốt: chỉ tình trạng sợ sệt, vội vã, cuống quýt.
(10) Tráng sĩ: người có sức lực cường tráng, chí khí mạnh mẽ, hay làm việc lớn (tráng: khỏe mạnh, to lớn, cường tráng; sĩ: người trí thức thời xưa và những người được tôn trọng nói chung).
(11) Trượng: đơn vị đo bằng 10 thước Trung Quốc cổ (tức 3,33 mét); ở đây hiểu là rất cao.
(12) Lẫm liệt: hùng dũng, oai nghiêm.
(13) Phi: ở đây là thúc ngựa chạy nhanh như bay (phi: bay).
(14) Tàn quân: quân bại trận còn sống sót.
(15) Núi Sóc: nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
(16) Phong: ban cho, tặng thưởng (chức tước, đất đai, học vị...).
(17) Phù Đổng Thiên Vương: vị thiên vương ở làng Phù Đổng (thiên vương: ở đây hiểu là vị tướng nhà trời; phù: giúp đỡ; đổng: chỉnh đốn, trông coi).
(18) Tre đằng ngà: giống tre có lớp cật ngoài trơn, bóng, màu vàng.
(19) Làng Cháy: một làng ở cạnh làng Phù Đổng.
Thánh Gióng là truyền thuyết kể về điều gì?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- em xin trả ký túc trở về kinh thành hiện
- thực lại cô quyền với nhà vua bà mỏ mỏ
- vực gồm một con ngựa sắt một bể cháo
- sách và một bộ giáp sắt vì dân khắp nơi
- đổ su khóc lương thực cho cậu bé có sức
- đánh giặc chén gì rất cao nhưng biết đâu
- bé bỗng Đứng dậy vươn vai thành tráng sĩ
- khổng lồ các con thân mến đoạn video vừa
- xem khiến con liên tưởng tới truyền
- thuyết nào như các con đã biết số lượng
- truyền thuyết trong kho tàng
- thời gian ở nước ta không nhiều nhưng đã
- phản ánh nhiều mặt Cuộc Sống nhân vật và
- sự kiện lịch sử từ thời dựng nước và
- Thánh Gióng là một truyền thuyết về
- người anh hùng đánh ngoại xâm cứu nước
- vừa thể hiện niềm tự hào với sức trẻ của
- dân tộc vừa thể hiện quan niệm và ước mơ
- của người dân về người anh hùng dân tộc
- bài học ngày hôm nay cô trò chúng ta sẽ
- đi tìm hiểu truyền thuyết Thánh Gióng số
- bài học này Kô be vọng chúng ta sẽ đạt
- được những mục tiêu sau đây không cho
- chúng ta hiểu được nội dung ý nghĩa của
- hình tượng Thánh Gióng đồng thời phát
- hiện những đặc sắc nghệ thuật của truyền
- thuyết này chúng ta vào phần đầu tiên
- tìm hiểu chung Mỹ ở phần mục tiêu bài
- học chúng ta đã thấy truyền thuyết này
- có 2 nội dung chính đó là Thánh Gióng
- một hình tượng con người phi thường đồng
- thời
- anh cũng là một anh hùng gần gũi với
- nhân dân là biểu tượng của nhân dân
- trong phần tìm hiểu chi tiết của chúng
- ta sẽ đi tìm hiểu hai nội dung này Trước
- hết Thánh Gióng hình tượng con người phi
- thường chuyện xưa kể rằng giặt bạn đến
- chân núi trâu cái nước rất nguy người
- người hoảng hốt vừa lúc đó sứ giả đem
- ngựa sắt roi sắt áo giáp sắt đến chú bé
- vùng dậy vươn vai một cái bỗng biến
- thành một tráng sĩ mình cao hơn trưởng
- oai phong lẫm liệt trang sĩ mặc áo giáp
- cầm roi nhảy lên Mình ngựa ngựa hí xài
- mấy tiếng vang dội phun lửa rồi phi
- thẳng đến nơi có giặc có được cái viên
- tay ấy chú bé làng Gióng đã trải qua bao
- nhiêu điều kỳ lạ khác thường trước đó và
- Thánh Gióng là một hình tượng con người
- phi thường được đúc kết bởi bốn yếu tố
- sau chúng ta có sự ra đời phi thường
- anh tâm sự phi thường phi thường cho
- việc đánh giặc và phi thường trong
- khoảng cách ra đi người anh hùng đánh
- giặc ngoại xâm bảo vệ bờ cõi trong tâm
- thức của nhân dân ta là một con người
- phi thường nói về phi thường trong sự ra
- đời Thánh Gióng là con của hai vợ chồng
- ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng phúc
- đức mẹ có thai dọa ướt vở vết chân to
- bạn có thai những 12 tháng mới sinh ra
- giống như chúng ta đã biết tất cả những
- đứa trẻ trên đời đều có thai váo 9 tháng
- 10 ngày nhưng Thánh Gióng mẹ của Thánh
- Gióng mang thai tới tận 12 tháng sự ra
- đời không bình thường của nhân vật là
- một Mua tít thường thấy trong văn học
- dân gian như dự báo trước những điều
- khác thường mà nhân vật sẽ làm nên trong
- cuộc đời mình đây cũng là quan niệm của
- dân gian về những con người có công với
- cộng đồng các
- thế này con lại cho cô biết sự ra đời
- khác thường của Thánh Gióng được đẩy như
- thế nào không chỉ phi thường trong sự ra
- đời Thánh Gióng còn phi thường trong sự
- lớn lên tháng sóng lên 3 mà không biết
- nói biết cười xin nói đầu tiên lại là
- tiếng đói đòi đi đánh giặc sau đó chú bé
- bỗng lớn nhanh như thổi rồi vươn mình
- thành tráng sĩ ngay trong việc phi
- thường ở sự lớn lên đã hé lộ một đặc
- điểm phi thường thứ ba đó là phi thường
- trong việc đánh giặc một cậu bé lên ba a
- Thánh Gióng vươn vai thành tráng sĩ rồi
- cưỡi ngựa sắt mặc giáp sắt cầm roi sắt
- xông ra giết giặc khi roi gậy Gióng nhổ
- tiếng chụp bụi tre bên đường quần và
- giặt một mình rắn đã đánh giặc khiến
- giặc tan dẫm đạp lên nhau
- Em muốn sau khi đánh thắng Gặp Thánh
- Gióng còn phi thường trong cách ra đi
- đánh giặc giống cùng ngựa bay về trời đó
- là sự hóa thân của người anh hùng Vào
- Cõi Trời đất vào vĩnh hằng bất tử Vậy
- đọc và theo dõi tác phẩm trong sách giáo
- khoa có lẽ cho cô biết chi tiết nào sau
- đây thể hiện sự bất tử của Gióng chúng
- ta thấy rằng chuyện này tượng trưng cho
- cái hùng khí lẫm liệt của một dân tộc
- trẻ trung Đang trỗi dậy tự tin tự hào
- cảm thấy có thể Quét sạch một cuộc ngoại
- xâm ồ ạt và hung hãn bằng một cái bông
- roi Đó là một bản anh hùng ca ca ngợi
- cái Uy Vũ của một loài giống tự giác về
- lực lượng của mình tự thấy mình là tướng
- của nhà trời vươn vai lên mấy cái là cao
- Lên bấy như trưởng có con thần mã để lên
- lưng nó bám vào cổ nó vất vả hâm nó thì
- nó
- ở mũi phun hình vòi rồng lửa đỏ đục đâu
- trái đó càng đánh càng khỏe càng thắng
- càng hăng nhờ một bụi tre Đằng nhà bằng
- một bàn tay nắm lại và bước lên trời
- bằng dùng một ngọn núi là một bậc thang
- người ấy có phải là một người thường đâu
- Đó là một siêu nhân một thêm tướng được
- dân tộc ta quan niệm xây dựng nên Chết
- làm sao được đó là lời phê bình của nhà
- nghiên cứu trần thanhmai Vậy theo em
- truyền thuyết Thánh Gióng là truyền
- thuyết kể về điều gì của chúng ta vừa
- tìm hiểu phần thứ nhất Thánh Gióng hình
- tượng con người phi thường phần thứ hai
- chúng ta sẽ tìm hiểu ở video tiếp theo
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây